Vận động sản phụ Rắc Lây “xuống núi”

Cha Ma Lia Thị Thuế, người dân tộc Rắc Lây ở thôn Ra Trơn, xã Phước Trung, huyện Bác Ái – Ninh Thuận tham gia khóa đào tạo cô đỡ thôn bản 6 tháng vào năm 2008. Từ đó, chị bắt đầu theo đuổi nghề này tại xã Phước Trung với vài trăm nghìn tiền trợ cấp hàng tháng. Công việc của chị là quản lý số phụ nữ mang thai, tham gia khám thai, tư vấn cho các sản phụ, đỡ đẻ tại trạm y tế xã; chăm sóc bà mẹ và trẻ sơ sinh trong tuần đầu sau sinh.

Chị Cha Ma Lia Thị Thuế cho biết: Đã thành hủ tục, phụ nữ Rắc Lây khi sinh con phải sinh tại nhà hoặc tại nương rẫy. Thường chỉ có người thân như mẹ đẻ, mẹ chồng hoặc chồng ở bên cạnh trực tiếp đỡ đẻ và cắt rốn cho em bé. Nếu gặp ca khó, người nhà phải thuê thầy cúng, thầy mo làm lễ. Vì thế, tai biến sản khoa thường xuyên diễn ra. Nhiều chị không may qua đời để lại đàn con nheo nhóc, tội nghiệp.

img_0264.jpg
Chị Cha Ma Lia Thị Thuế

Sau khi hoàn thành khóa đào tạo tại Bệnh viện Từ Dũ (TP HCM), chị Thuế trở về địa phương sử dụng kiến thức học được tuyên truyền cho bà con hiểu thế nào là “đẻ sạch”. Chị phải đến từng nhà sản phụ để tỉ tê, vận động họ đến trạm y tế xã khám thai định kỳ; khi sinh phải đến trạm y tế cho an toàn, không nên đẻ tại nhà.

“Người Rắc Lây quan niệm, em bé sẽ không ra nếu gặp người lạ và ở chỗ đông người, vì thế ban đầu khi tôi vận động, họ không chịu đến trạm y tế. Tôi phải giải thích rằng, nếu đẻ ở nhà, máu chảy nhiều không kịp thời cấp cứu sẽ nguy hiểm đến tính mạng của em bé và người mẹ”, Cha Ma Lia Thị Thuế kể. Chị cũng dẫn chứng các trường hợp ngay tại thôn, bản bị tai biến do sinh nở tại nhà để người dân địa phương hiểu và dần thay đổi quan niệm cổ hủ.

Sau hơn 4 năm gắn bó với công việc, chị giờ đã trở thành người bạn thân thiết của dân làng. Nhiều sản phụ đã chủ động tìm đến Cha Ma Lia Thị Thuế để được chị tư vấn, chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm chăm sóc sức khỏe sinh sản. Đến nay, hầu hết phụ nữ Rắc Lây ở địa phương khi sinh con đã đến trạm y tế xã. Những trường hợp ở xa, đi lại khó khăn, Cha Ma Lia Thị Thuế cùng cán bộ y tế xã lặn lội đến nhà để đỡ đẻ.

Tâm sự của người “khai sinh” ra cô đỡ thôn bản

Nhắc đến GS.BS Nguyễn Thị Ngọc Phượng, nguyên Giám đốc Bệnh viện Từ Dũ, nhiều người thường nghĩ đến công trình thụ tinh trong ông nghiệm, mà bà đã dày công nghiên cứu và áp dụng thành công tại Việt Nam, song bà cũng chính là “mẹ đẻ” của chương trình cô đỡ thôn bản.

GS.BS Nguyễn Thị Ngọc Phượng cho biết: Bệnh viện Từ Dũ được Bộ Y tế giao là cơ quan chuyên khoa đầu ngành của các tỉnh, thành từ Đà Nẵng tới Cà Mau. Công việc đã giúp bà đi nhiều, tiếp xúc nhiều với phụ nữ. Điều bà trăn trở là tỷ lệ tử vong ở bà mẹ và trẻ sơ sinh còn rất cao ở các tỉnh miền núi, nhất là ở vùng dân tộc thiểu số. Do đó, việc làm thể nào để giảm tỷ lệ tử vong cho các bà mẹ ở vùng đó là điều bà và các cộng sự không thể không quan tâm.

GS.BS Nguyễn Thị Ngọc Phượng

“Ở nhiều vùng dân tộc thiểu số, việc đi lại rất khó khăn, do đó sản phụ không được tiếp cận với các dịch vụ y tế, nhân viên y tế cũng không thể nào đi lên những nơi xa xôi như vậy. Tôi nghĩ, cách tốt nhất là phải đào tạo những cô đỡ tại chỗ, có cách tiếp cận người dân tốt, sống cùng cộng đồng, nói tiếng cộng đồng, hiểu được phong tục tập quán nơi đó. Khi đó, các cô dễ dàng giải thích, hướng dẫn phụ nữ địa phương đến khám thai và đẻ ở trạm y tế xã. Trong trường hợp sản phụ không thể đến được trạm y tế, cô đỡ thôn bản cũng có thể đỡ đẻ tại nhà theo cách an toàn và sạch” – bà Nguyễn Thị Ngọc Phượng nói.

Năm 1998, Viện Paster TP HCM gửi thư cho GS.BS Nguyễn Thị Ngọc Phượng, yêu cầu phối hợp để thực hiện chương trình giảm tỷ lệ tử vong sơ sinh. Dự án đào tạo cô đỡ thôn bản ra đời và lần đầu tiên áp dụng tại huyện Bù Đăng – tỉnh Bình Phước, nơi có tỷ lệ uốn ván rốn sơ sinh cao nhất nước lúc bấy giờ. Những cô gái người dân tộc thiểu số đầu tiên ở Bù Đăng được lựa chọn, đào tạo tại Bệnh viện Từ Dũ, sau đó trở về địa phương làm cô đỡ thôn bản.

Đến 2001, qua khảo sát của Viện Paster TP HCM và Bệnh viện Từ Dũ, tỷ lệ uốn ván sơ sinh ở huyện Bù Đăng đã giảm rất thấp, và đến nay không còn nữa. Điều này có được nhờ các cô đỡ thôn bản được đào tạo trở về đã chăm sóc sản phụ trong quá trình mang thai, khuyên các sản phụ tới đẻ tại trạm y tế; lĩnh thuốc về tiêm phòng cho các bà mẹ và trẻ sơ sinh. Tai biến tử vong của các bà mẹ và trẻ sơ sinh tại địa phương đã giảm rõ rệt.

GS.BS Nguyễn Thị Ngọc Phượng cho biết, đặc điểm của người dân tộc thiểu số là hiếm khi muốn xa thôn bản, xa gia đình với thời gian quá lâu, vì thế chương trình đào tạo cô đỡ thôn bản chỉ diễn ra trong 6 tháng, theo cách “cầm tay chỉ việc”. Các học viên được thực hành ngay tại bệnh viện. Một nữ hộ sinh “cứng” trong ca trực kèm một học viên cô đỡ thôn bản. Những kinh nghiệm, tâm huyết nghề được các nữ hộ sinh truyền đạt trực tiếp cho các cô đỡ thôn bản. Vì thế, thời gian đào tạo tuy ngắn, nhưng kỹ năng thực hành và hiểu biết về công việc của cô đỡ thôn bản tương đối tốt.

GS.BS Nguyễn Thị Ngọc Phượng chia sẻ thêm: “Khi biết Bệnh viện Từ Dũ có chương trình này, một cán bộ thuộc Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) ở Tây Thái Bình Dương có nói với tôi là họ đã tốn cả triệu USD để đào tạo cô đỡ thôn bản thuộc khu vực biên giới Thái Lan, Campuchia, Lào… tuy nhiên vẫn không thành công, vì các cô không muốn rời thôn bản lâu dài. Thế nên, việc chỉ tốn vài trăm triệu đồng để đào tạo được hàng trăm cô đỡ thôn bản ở Việt Nam là rất hiệu quả. Theo WHO, để đào tạo được một cô đỡ thôn bản tốn ít nhất 2.000 USD”./. 

Từ năm 1998, Bệnh viện Từ Dũ đào tạo thí điểm tại Lâm Đồng và Bình Phước, sau đó phát triển thành 500 cô đỡ thôn bản người dân tộc thiểu số. Thời gian đào tạo 6 tháng tại Bệnh viện Từ Dũ.

Đến nay, tổng số côn đỡ thôn bản được đạo tạo khoảng 1.300 người (38/54 dân tộc) đang làm việc tại 20 tỉnh thuộc miền núi phía Bắc, miền Trung, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. Hiện tại có khoảng 80% số này đang làm việc và có những đóng góp không nhỏ vào công tác chăm sóc bà mẹ và trẻ em, giảm tai biến sản khoa tại cộng đồng.

Từ 1/5/2013, cô đỡ thôn bản chính được được công nhận là một chức danh trong ngành y.