Trong quan hệ thế giới nhiều rủi ro và bất định, sức mạnh quân sự là một dạng công cụ quan trọng. Một quốc gia có thể có một nền văn hóa, nghệ thuật và triết học hoành tráng, cũng những vinh quang khác, nhưng tất cả những điều đó sẽ ít ý nghĩa nếu đất nước đó thiếu một quân đội hùng mạnh để tự bảo vệ. 

Trong các loại sức mạnh quân sự, lục quân dễ được coi là quan trọng nhất bởi một lẽ đơn giản, con người ta sống trên cạn và nhiều khả năng sẽ tiếp tục như vậy trong tương lai. Như nhà khoa học chính trị nổi tiếng J. Mearsheimer từng nhận xét: “Với các lực lượng không quân và hải quân đóng vai trò hỗ trợ, lục quân chính là dạng sức mạnh quân sự ở mức cao nhất của thế giới hiện đại”.

Trên thực tế, theo Mearsheimer, cuộc Chiến tranh Thái Bình Dương chống lại Nhật Bản là “cuộc chiến duy nhất của cường quốc trong thế giới hiện đại mà trong đó lục quân không chịu trách nhiệm chính về việc phân định thắng thua, còn sức mạnh không quân và hải quân đóng vai trò cao hơn vai trò phụ trợ”. Tuy nhiên, Mearsheimer cũng giải thích luôn, “sức mạnh lục quân vẫn đóng vai trò quyết định trong việc đánh bại nước Nhật” (xét trong toàn bộ cuộc Chiến tranh Thế giới thứ 2).

Và do vậy, lục quân là nhân tố quan trọng nhất phải tính tới khi đánh giá sức mạnh tương đối của một quốc gia. Nhưng làm thế nào mà chúng ta xác định được các lực lượng lục quân nào là hùng mạnh nhất trong thời của họ? Câu trả lời là dựa vào khả năng giành chiến thắng một cách quyết định và nhất quán, và mức độ mà các đội quân đó cho phép các nước tương ứng của chúng khống chế được các quốc gia khác – chức năng này chỉ có ở lực lượng trên bộ, vì chỉ lục quân mới có thể kiểm soát và chinh phục. 

Dưới đây là một vài lục quân hùng mạnh nhất trong lịch sử:

Lục quân La Mã

1_luc_quan_la_ma_sief.jpg
Tranh về lục quân La Mã.

Quân đội La Mã nổi tiếng về việc chinh phục cả thế giới phương Tây trong một thời kỳ kéo dài tới mấy trăm năm. Lợi thế của lục quân La Mã là sức dẻo dai, khả năng quay trở lại và giao tranh liên tục bất kể có bị thất bại đến thế nào. Người La Mã phô bày điều này trong các cuộc chiến tranh Carthago. Thời đó bất chấp thiếu thốn thông tin và nguồn lực, người La Mã vẫn đánh bại được người Carthago bằng cách đợi cho đối phương lộ diện, sau đó dùng chiến thuật bất ngờ.

Quân đội La Mã có nhiều cách khuyến khích binh sĩ chiến đấu một cách mạnh mẽ và quyết tâm. Đối với các quân nhân nghèo, chiến thắng trong chiến tranh sẽ mang lại cho họ đất đai. Đối với các địa chủ, chiến thắng sẽ củng cố các quyền lợi đã có của họ, đồng thời giúp họ giàu có thêm. Đối với toàn quốc gia La Mã, chiến thắng trong chinh chiến sẽ bảo đảm an ninh cho đế chế này.

Tất cả các sáng kiến trên thúc đẩy người lính La Mã chiến đấu mãnh liệt hơn. Tinh thần chiến đấu luôn là một yếu tố rất quan trọng trong năng lực tác chiến của lục quân.

Một yếu tố quan trọng tương tự là việc La Mã sử dụng đội hình chiến thuật nhiều hàng, điều này giúp quân La Mã có thêm lợi thế. Khi đối phương đã kiệt quệ trước các lớp chiến binh tuyến đầu, thì những binh sĩ khỏe mạnh tung vào trận ở các tuyến sau sẽ dễ dàng hạ gục đối phương.

Với các vị tướng tài, quân đội La Mã cũng biết sử dụng yếu tố cơ động để giành lợi thế trước đối phương, nhất là trước các kẻ thù thường thiên về phòng ngự.

Kết quả là trong khoảng 300 năm, La Mã đã bành trướng từ một cường quốc ở khu vực Italy trở thành một đế chế làm chủ toàn bộ Địa Trung Hải và các dải đất xung quanh. Các đội quân lê dương của La Mã – các sư đoàn lục quân La Mã bao gồm các binh sĩ chuyên nghiệp phục vụ trong 25 năm – được huấn luyện tốt và được vũ trang mạnh. Các đội quân này được bố trí tại các vị trí chiến lược trong toàn đế chế La Mã, vừa để giữ sự thống nhất của đế chế vừa để ngăn kẻ thù từ bên ngoài. Quân đội La Mã, dù có một số nhược điểm nhất định, thực sự không có đối thủ ngang hàng sức mạnh trong vùng của mình.

Lục quân Mông Cổ

Hình ảnh quân đội Mông Cổ trên đường hành quân. Ảnh: deadliestblogpage.wordpress.com.

Người Mông Cổ - có số lượng tối đa chỉ 1 triệu người khi họ bắt đầu các cuộc chinh phạt vào năm 1206 - đã cố gắng đánh chiếm và chinh phục hầu hết lục địa Á-Âu trong 100 năm. Họ đã đánh bại các đội quân và quốc gia đông gấp hàng chục lần, thậm chí hàng trăm lần dân số Mông Cổ. Quân đội Mông Cổ về cơ bản là một lực lượng không thể cản bước, xuất hiện bất thình lình để rồi thống trị cả Trung Đông, Trung Quốc và Nga.

Thành công của người Mông Cổ phần nhiều là do các chiến thuật và chiến lược của nhân vật Thành Cát Tư Hãn, người đã sáng lập ra đế chế Mông Cổ. Thế mạnh số một của người Mông Cổ là tính cơ động và sự bền bỉ. Chính lối sống du mục của người Mông Cổ đã giúp họ điều động được các đội quân lớn vượt qua một khoảng cách lớn trong thời gian ngắn đáng kinh ngạc. Trong quá trình di chuyển, người Mông Cổ có thể sống dựa vào đàn gia súc và máu từ chính các con ngựa mà họ cưỡi.

Thực sự thì sức cơ động cao của người Mông Cỏ dựa phần lớn vào kỵ mã của họ. Mỗi kỵ binh Mông Cổ nuôi 3 đến 4 con ngựa để không ngừng tiếp sức cho họ. Các kỵ binh mang theo cung tên để vừa cưỡi ngựa vừa bắn, khiến quân Mông Cổ có thể lợi thế rõ rệt trước lực lượng bộ binh trong quá trình giao tranh. Tính kỷ luật nghiêm khắc của người Mông Cổ cộng với tính cơ động từ các chú ngựa đã giúp người Mông Cổ phát triển nhiều chiến thuật sáng tạo, bao gồm lối đánh bất ngờ rồi rút lui và một hình thức sơ khai của chiến tranh chớp nhoáng.

Quân Mông Cổ cũng dùng nhiều đến “ngón đòn” khủng bố, cố tình gây ra những thiệt hại và thương vong thật lớn cho các kẻ thù thất trận nhằm đập tan ý chí của các kẻ thù khác.

Lục quân của đế chế Ottoman

Hình ảnh lục quân Ottoman. Ảnh: saracennegative.deviantart.com.

Quân đội Ottoman đã chinh phục hầu hết Trung Đông, vùng Balkan, và Bắc Phi trong thời kỳ hoàng kim của đế chế Ottoman. Gần như lúc nào đội quân Ottoman cũng áp đảo lực lượng quân sự của người Kitô giáo cũng như Hồi giáo ở các nước láng giềng. Lục quân Ottoman đã chinh phục một trong những thành phố khó công phá nhất trên thế giới – thành Constantinople, vào năm 1453. Trong vòng 500 năm, quân đội Ottoman là nhân tố cơ bản trên sân khấu chính trị của một khu vực mà trước đó gồm tới hàng chục quốc gia.

Bí quyết của lục quân Ottoman là sử dụng hiệu quả đại bác và súng hỏa mai trước các kẻ thù đa phần vẫn chiến đấu bằng các vũ khí từ thời trung cổ. Điều này mang lại cho Ottoman lợi thế có tính quyết định khi họ mới chỉ là một đế chế non trẻ. Pháo đã giúp họ hạ được thành Constantinople và đánh bại người Ba Tư cùng người Mamluk của Ai Cập.

Một lợi thế quan trọng khác của Ottoman là họ sử dụng các đơn vị bộ binh tinh nhuệ mà họ gọi là Janissary. Các Janissary này được huấn luyện làm chiến binh từ khi còn trẻ và do vậy vừa rất mực trung thành vừa rất thiện chiến trên chiến trường.

Lục quân Đức Quốc xã

Lục quân Đức Quốc xã. Ảnh: www.strangenotions.com

Sau thế bế tắc kéo dài trên chiến trường Thế chiến thứ 1(cuộc chiến nổi tiếng với hình thế trận địa chiến – hai bên đều cầm chừng do nếu xung phong lên dù cả bằng kỵ binh thì đều dễ dàng trở thành mồi ngon cho súng máy bắt đầu được sử dụng rộng rãi vào thời kỳ đó - ND), sang Thế chiến thứ 2, lục quân Đức Quốc xã (có tên gọi Heer) đã gây sốc cho cả châu Âu và thế giới bằng việc nhanh chóng đánh chiếm hàng loạt quốc gia Trung và Tây Âu chỉ trong có vài tháng. Có thời điểm người ta tưởng chừng quân bộ Đức đã đánh chiếm được toàn bộ Liên Xô rộng lớn.

Lục quân Đức có khả năng đạt được các chiến công lớn đó là nhờ đưa vào áp dụng một khái niệm chiến tranh mới là “chiến tranh chớp nhoáng” (Blitzkriegtrong tiếng Đức).Hình thức tác chiến này sử dụng các công nghệ mới về vũ khí và liên lạc, kết hợp tốc độ, yếu tố bất ngờ và sử dụng tập trung lực lượng để tạo ra hiệu quả đáng sợ. Cụ thể, các đơn vị bộ binh cơ giới hóa và được trang bị xe thiết giáp, lại được yểm trợ bằng không quân tầm gần, có năng lực chọc thủng phòng tuyến đối phương và bao vây tiêu diệt quân địch.

Trong giai đoạn mở màn Thế chiến 2, lực lượng đối phương của Đức thường bị sốc và áp đảo hoàn toàn đến mức họ hầu như chỉ chống cự một cách yếu ớt.

Tiến hành các cuộc tấn công chớp nhoáng kiểu này đòi hỏi phải có các lực lượng thiện chiến được huấn luyện kỹ, mà điều này thì người Đức lại dư thừa. Sử gia Andrew Roberts từng nhận xét: “Từng người lính Đức cho đến các vị tướng của họ đều vượt trội người Anh, người Mỹ và người Nga trong cả công lẫn thủ cùng nhờ một yếu tố nổi bật trong suốt Thế chiến 2”.

Tuy nhiên cuối cùng lục quân Đức Quốc xã cuối cùng đã thất bại do nước Đức thiếu cả nhân lực và các nguồn lực khác. Hệ tư tưởng Quốc xã cũng góp phần làm quân đội Đức chiến bại.

Lục quân Liên Xô

Tái hiện hình ảnh Hồng quân Liên Xô trên quảng trường Đỏ. Ảnh: blogs.ft.com

Quân đội Xô viết (trước năm 1946 được gọi là Hồng quân) đóng vai trò quyết định trong việc thay đổi cục diện Chiến tranh Thế giới lần thứ 2. Thực sự thì, trận Stalingrad – kết thúc bằng sự đầu hàng của toàn bộ Tập đoàn quân số 6 của Đức – gần như được toàn thế giới coi là bước ngoặt chính của mặt trận châu Âu trong Thế chiến thứ 2.

Chiến thắng của Liên Xô trong Thế chiến 2 và năng lực của nước này trong việc gây áp lực đối với phần còn lại của châu Âu trong 4 thập kỷ tiếp theo sau khi cuộc chiến kết thúc, một phần nhỏ là nhờ ưu thế về công nghệ (ngoại trừ vũ khí hạt nhân) và thiên tài quân sự.

Lục quân Liên Xô là một lực lượng vô địch, một phần quan trọng là nhờ quy mô khủng của nước này xét về diện tích, dân số và nguồn lực công nghiệp.

Sử gia Richard Evans, chuyên nghiên cứu về Đức Quốc xã, giải thích: “Theo ước tính của riêng Liên Xô, Hồng quân Liên Xô đã chịu các tổn thất tổng cộng lên tới hơn 11 triệu lính, trên 100.000 máy bay, hơn 300.000 khẩu pháo, và gần 100.000 xe tăng và pháo tự hành. Một số nguồn khác đưa ra con số tổn thất nhân sự quân sự cao hơn nữa, có thể cao tới 26 triệu binh sĩ”.

Sau trận Stalingrad máu lửa, quân Liên Xô tiếp tục phải đổ thêm nhiều máu trong trận công phá Berlin, sào huyệt của phát xít Đức.

Về mặt công nghệ, Liên Xô có xe tăng T-34 nổi tiếng, với đóng góp không nhỏ vào chiến thắng chung. Về mặt chỉ đạo quân sự, về sau Stalin đã mạnh dạn trao quyền cho một số chỉ huy có năng lực.

Sau năm 1945, ngoài việc sở hữu vũ khí hạt nhân, lục quân Liên Xô thời kỳ Chiến tranh Lạnh vẫn sở hữu lợi thế quân đông và nguồn lực quốc gia khổng lồ. Do vậy Mỹ và NATO đã lên kế hoạch sử dụng vũ khí hạt nhân sớm nếu xảy ra xung đột ở châu Âu.

Lục quân Mỹ

Lính Mỹ ở Afghanistan. Ảnh: Reuters.

Trong suốt chiều dài lịch sử của mình, Hoa Kỳ thường tránh duy trì một lực lượng lục quân đông đảo. Đấy là do Hiến pháp Hoa Kỳ chỉ yêu cầu Quốc hội xây dựng và duy trì hải quân thường trực, và chỉ cho phép Quốc hội xây dựng và hỗ trợ lục quân khi cần thiết.

Mỹ đã áp dụng mô hình này cho đến khi kết thúc Thế chiến 2. Trong thời kỳ đó, Mỹ hình thành các đội quân trên bộ có quy mô lớn trong thời chiến rồi khi chiến tranh qua đi, họ nhanh chóng giải tán các lực lượng lục quân có quy mô lớn.

Dẫu vậy từ đầu thế kỷ 20, lục quân Mỹ vẫn hiệu quả cao, đặc biệt là trong các cuộc chiến chống lại các quốc gia-dân tộc. Việc Mỹ tham gia vào Thế chiến 1 và 2 đã góp phần làm nghiêng cán cân lợi thế về phe đồng minh. Lục quân Mỹ cũng đã làm tan rã quân đội của Saddam Hussein ở Kuwait năm 1991 và ở Iraq năm 2003.

Lục quân Mỹ ấn tượng ở chỗ họ có khả năng triển khai một lực lượng lớn một cách nhanh chóng và hiệu quả. So với các đội quân đông về số lượng như Liên Xô, lục quân Mỹ thành công nhờ chủ yếu vào mức độ huấn luyện cao và ưu thế vượt trội về công nghệ. Đã vậy, lục quân Mỹ lại được tiếp sức bởi lực lượng không quân và hải quân cũng là mạnh nhất thế giới.

(Bài viết phản ảnh quan điểm của hai nhà báo Mỹ, Zachary Keck và Akhilesh Pillalamarri).