Mục tiêu khi đưa quân vào Iraq và chiến lược giành quyền kiểm soát của Mỹ trong khu vực đã bị phá sản. Chính Tổng thống Obama cũng phải thừa nhận, Mỹ không giành được chiến thắng nào sau 7 năm chiến tranh đẫm máu.

Lặp lại sai lầm trong chiến tranh Việt Nam

Sau chiến tranh Việt Nam, Mc. Namara - Nguyên Bộ trưởng Quốc phòng dưới các thời Tổng thống Johnson và Nixon đã thú nhận rằng, chiến tranh Việt Nam của Mỹ là một “sai lầm, sai lầm khủng khiếp”, ông đã rút ra 11 nguyên nhân gây ra thảm bại cho nước Mỹ và nhấn mạnh nguyên nhân thứ ba: “Chúng ta (tức Mỹ) đã đánh giá thấp sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc thúc đẩy một dân tộc”.

Tuy nhiên, đến tháng 3/2003, lấy cớ tìm kiếm vũ khí hủy diệt hàng loạt, liên quân do Mỹ đứng đầu với khí thế áp đảo về lực lượng và vũ khí công nghệ cao, lại tiến vào Thủ đô Baghdad, lật đổ chế độ của Tổng thống Saddam Hussein. Cuộc chiến tranh Iraq lần này đã kéo dài ngoài dự kiến của Mỹ, lâu hơn cả cuộc nội chiến ở Mỹ, Chiến tranh thế giới thứ nhất và Chiến tranh thế giới thứ hai. Hơn 7 năm qua, tiếng súng chưa bao giờ ngưng trên mảnh đất này. Những vụ đánh bom đẫm máu của lực lượng nổi dậy xảy ra với mức độ ngày càng gia tăng, gây nỗi kinh hoàng cho cả dân thường Iraq và binh sĩ Mỹ.

Trên cơ sở khái quát của người Mỹ năm 2003 về mối quan hệ giữa chiến tranh xâm lược Việt Nam (1954 – 1975) với cuộc chiến tranh ở Iraq, một số nhà nghiên cứu hồi đó đã nêu ý kiến về những bài học mà các nhà cầm quyền Mỹ cần tính tới. Rằng, “đã đến lúc cần nhìn lại cuộc chiến tại Việt Nam và Iraq và bài học gì mà cuộc chiến thứ nhất có thể dạy chúng ta về cuộc chiến thứ hai”. Tuy nhiên, sai lầm lại lặp lại, quân đội Mỹ lại phải làm cái việc mà 37 năm trước đây họ đã làm ở Việt Nam: Rút quân về nước với “hai bàn tay trắng”.

Có thể nhiều người còn nhớ, chỉ vài ngày trước khi quân Mỹ tiến quân đánh chiếm Iraq (2003), các Đài truyền hình Mỹ đã đưa lên màn ảnh cảnh các nhân viên Đại sứ quán Mỹ rút chạy bằng trực thăng từ nóc tòa Đại sứ Mỹ ở Sài Gòn vào những ngày cuối tháng 4/1975.

Tạo thêm hận thù và bạo lực

Mục tiêu của Mỹ trong cuộc chiến xâm lược Iraq là phá hủy quân đội, lật đổ chế độ Saddam Hussein và lập một chính phủ thân Mỹ ở Baghdad, nhằm bảo đảm các lợi ích của Mỹ tại quốc gia giàu dầu mỏ này nói riêng và toàn bộ khu vực Trung Đông nói chung. Tuy nhiên đến nay, Iraq vẫn chưa thành lập được chính phủ sau gần 6 tháng tiến hành cuộc bầu cử Quốc hội. Đất nước Iraq rơi vào hận thù, chia rẽ.

Trái với tuyên truyền của Mỹ rằng sẽ đem lại tự do cho người dân Iraq, đất nước này hơn 7 năm qua đã chìm trong bom đạn, chết chóc, đau thương. Bạo lực đã làm hơn 100.000 dân thường Iraq chết. Mỹ không những không trấn áp được khủng bố mà Iraq còn trở thành một "địa bàn" cho khủng bố tung hoành. Sự hận thù của người dân Iraq càng thổi bùng làn sóng chống Mỹ và đây cũng là một trong những nguyên nhân làm gia tăng các vụ đánh bom liều chết.

Khi thời hạn quân chiến đấu Mỹ sắp rút khỏi Iraq, Thủ tướng Iraq ông Nouri al Maliki đã đặt nước này trong tình trạng báo động khủng bố cao nhất, đồng thời cảnh báo các âm mưu gieo rắc sợ hãi và hỗn loạn khi quân đội Mỹ chính thức rút lực lượng chiến đấu ở Iraq theo kế hoạch. Các phần tử nổi dậy ở Iraq đã tăng cường tấn công vào lực lượng cảnh sát và binh lính nước này, biến tháng 8/2010 thành tháng đẫm máu nhất trong 2 năm vừa qua, với trung bình 5 người bị giết hại mỗi ngày. Sau khi người lính chiến đấu Mỹ cuối cùng rút khỏi Iraq, một lỗ hổng lớn về an ninh sẽ càng lộ rõ khiến dư luận không khỏi hoài nghi về nguy cơ bạo loạn, bất ổn gia tăng.

Hao người, tốn của – gia tăng sự bất bình của dân Mỹ

Nhà cầm quyền Mỹ hiện đang rơi vào tình thế tiến thoái lưỡng nan. Washington không thể tăng quân mãi và không thể đeo đuổi chiến tranh lâu dài bởi chi phí ngày càng tốn kém, như "ném tiền vào thùng không đáy". Cuộc chiến tranh Iraq đã tiêu tốn của Mỹ 740 tỷ USD, trong khi nước Mỹ đang phải gồng mình để vượt qua khủng hoảng, phục hồi kinh tế. Chính quyền Mỹ cũng phải cay đắng thừa nhận, một trong những nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng kinh tế là do "sa lầy" trong cuộc chiến ở Iraq và Afghanistan. Ngay cả các đồng minh thân cận nhất của Mỹ cũng tìm cách rút quân khỏi Iraq trước cả Mỹ vì nhiều lý do khác nhau.

Làn sóng phản đối cuộc chiến tranh ở Iraq nổi lên trong lòng nước Mỹ. Cuộc chiến tranh Iraq đã làm hơn 4.400 binh sĩ Mỹ chết, hàng nghìn binh sĩ bị thương. Nhiều người dân Mỹ bất bình khi chứng kiến hằng ngày con em họ phải đổ máu ở một đất nước xa xôi. Rồi cả những nỗi đau bị giày vò cả về thể xác lẫn tinh thần, hàng ngàn người mắc bệnh tâm thần với "Hội chứng Iraq".

Việc Mỹ rút quân theo "lộ trình" để rồi rút hoàn toàn quân đội khỏi Iraq vào cuối năm 2011 chỉ là sự lựa chọn "bất đắc dĩ" trong tình thế "tiến thoái lưỡng nan". Chính các tướng, tá Mỹ và Iraq cũng thừa nhận, phải 10 năm hoặc lâu hơn nữa, quân đội Iraq mới có khả năng bảo đảm an ninh.

Tổng thống Obama coi việc rút quân của Mỹ là "dấu mốc lịch sử" và cuộc chiến đang khép lại, nhưng xét về các mục tiêu chiến lược, Mỹ đã hoàn toàn thất bại. Đây là hậu quả tất yếu, bởi cuộc chiến tranh do Mỹ tiến hành trên đất nước Iraq là cuộc chiến xâm lược một quốc gia độc lập, có chủ quyền, dù núp dưới chiêu bài nào cũng khó biện minh. Chính vì vậy, cuộc chiến này đã vấp phải sự phản kháng của người dân Iraq, sự lên án của dư luận quốc tế. Việc sử dụng sức mạnh quân sự đe dọa và xâm lược một quốc gia độc lập và có chủ quyền là không thể chấp nhận được trong quan hệ quốc tế hiện nay và do đó, thất bại là việc đương nhiên!

Cuộc rút quân chiến lược đã hoàn tất đánh dấu một bước điều chỉnh chiếc lược của Mỹ trên toàn cầu. Từ chiến lược “can dự không xác định” sang chiến lược “can dự có giới hạn” nhằm tạo điểm nhấn cho Tổng thống Obama và Đảng Dân chủ khi chỉ còn chưa đầy 3 tháng nữa là tới cuộc bầu cử Quốc hội Mỹ. Tuy nhiên, cho dù cam kết đã được thực hiện, nước Mỹ sẽ còn phải mất rất nhiều thời gian để làm mờ đi hình ảnh của một cường quốc xâm lược và bù đắp những tổn hại về kinh tế và tinh thần./.