Đây là nội dung quan trọng được Đại sứ Nguyễn Xuân Thủy nêu ra trong bài viết của mình trên tờ Jakarta Post của Indonesia ngày 28/5.
Bài báo của Đại sứ Nguyễn Xuân Thủy đăng trên tờ Jakarta Post |
VOV xin giới thiệu toàn văn bài viết của Đại sứ Nguyễn Hồng Thủy:
Trong bài báo “Những hành động nguy hiểm của Việt Nam”, tùy viên Đại sứ quán Trung Quốc tại Indonesia có nói rằng quần đảo Tây Sa (thực chất là quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam) “rõ ràng là thuộc lãnh thổ Trung Quốc”.
Ông Liu đã ngang ngược cho rằng: “Cộng đồng quốc tế đã công nhận điều này kể từ Thế chiến Thứ 2, trong khi vào ngày 14/9/1958, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã công khai công nhận quần đảo Hoàng Sa và nhiều đảo khác thuộc lãnh thổ Trung Quốc”.
Vì thế, tôi buộc phải đưa ra những quan điểm sau đây để bác bỏ những thông tin sai lầm trên.
Trước hết, Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý vững chắc để tuyên bố chủ quyền của mình đối với đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.
Trong rất nhiều sử liệu chính thức của mình, Việt Nam đã liên tục Việt Nam đã thực thi chủ quyền một cách hòa bình và liên tục với quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa ít nhất là từ thế kỷ thứ 17 khi những quần đảo này vẫn còn được coi là vô chủ.
Một ví dụ cụ thể cho việc các vua, chúa của Việt Nam đã củng cố chủ quyền của Việt Nam đối với các quần đảo nói trên là việc Vua Minh Mạng đã cho xây chùa trên đảo Hoàng Sa vào năm 1853 và sau đó đã cho đặt một tượng đá tại đây.
Về phần mình, Trung Quốc không hề có ý định tuyên bố chủ quyền trên hai đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ngược lại, rất nhiều các bản đồ mô tả lãnh thổ của Trung Quốc dưới thời nhà Thanh đều nêu rõ đảo Hải Nam là cực Nam của lãnh thổ Trung Quốc.
Một trong những tấm bản đồ như vậy đã được Thủ tướng Đức Angela Merkel trao tặng Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình nhân chuyến thăm của nhà lãnh đạo Trung Quốc vào tháng 3/2014.
Khi Pháp thiết lập chế độ bảo hộ đối với Việt Nam năm 1884, Pháp đã tiếp quản quyền quản lý hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.
Ngoài ra, chủ quyền của Việt Nam đối với Trường Sa và Hoàng Sa đã được công nhận tại Hội nghị Hòa bình San Francisco tháng 9/1951 với sự tham dự của lãnh đạo của 51 quốc gia trên thế giới nhằm giải quyết vấn đề về lãnh thổ sau Thế chiến thứ 2.
Tại Hội nghị đó, người đứng đầu phái đoàn Việt Nam, ông Trần Văn Hữu, Thủ tướng dưới chính quyền của Vua Bảo Đại, đã nhấn mạnh chủ quyền quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam và không hề vấp phải sự phản đối nào từ 50 phái đoàn các nước khác.
Một điều cũng rất đáng lưu tâm tại Hội nghị Hòa bình San Francisco là đề xuất sửa đổi Hiệp ước Hòa bình San Francisco nhằm công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với Hoàng Sa và Trường Sa đã bị 46 trong tổng số 51 đoàn đại biểu tham dự từ chối.
Ngoài ra, các đại biểu tại Hội nghị Geneva 1954 về lập lại hòa bình trên bán đảo Đông Dương mà Trung Quốc cũng tham gia, đã công nhận và thể hiện sự tôn trọng đối với độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.
Là một bên tham gia Hội nghị, Pháp đã tuân thủ Hiệp ước San Francisco và rút quân của mình khỏi Việt Nam vào năm 1956. Sau khi Pháp rút quân, Việt Nam Cộng hòa đã nắm quyền quản lý những quần đảo này và thực hiện rất nhiều hành động cũng như tuyên bố để khẳng định chủ quyền của mình đối với hai quần đảo này.
Có một sự thật không thể chối cãi rằng vào năm 1974, Trung Quốc đã dùng vũ lực để chiếm đảo Hoàng Sa. Hành động xâm chiếm này đã vi phạm tiêu chuẩn tối thiểu của luật pháp quốc tế cấm việc sử dụng vũ lực trong các mối quan hệ quốc tế theo Điều 2, Khoản 4 của Hiến chương Liên Hợp Quốc.
Xuất phát từ những vi phạm nghiêm trọng luật pháp nói trên, việc chiếm giữ quần đảo Hoàng Sa của Trung Quốc hiện nay không hề đem lại tư cách hợp pháp cho họ dù Trung Quốc có ở đây bao lâu và dù nước này có sử dụng biện pháp gì để thực thi sự quản lý của mình.
Bản thân Trung Quốc cũng đã chấp thuận các quy định của Liên Hợp Quốc khi Bộ Ngoại giao Trung Quốc đưa ra một bản ghi nhớ vào ngày 12/5/1988 trong đó nêu rõ các hành động xâm lược sẽ không bao giờ có thể tạo ra chủ quyền.
Từ góc độ pháp lý và lịch sử, việc tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc đối với đảo Hoàng Sa là hoàn toàn vô căn cứ. Chính vì thế, quan điểm cố chấp của ông Liu rằng quần đảo Hoàng Sa thuộc về Trung Quốc là hoàn toàn sai trái.
Thứ hai, ông Liu đã cố tình trích dẫn sai Công thư ngày 14/9/1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng như một cách để công khai công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa.
Trong Công thư của mình, Thủ tướng Phạm Văn Đồng không hề nhắc dù chỉ một lời về lãnh thổ của Trung Quốc chứ chưa nói gì đến quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Thủ tướng Phạm Văn Đồng chỉ nhấn mạnh rằng sẽ ủng hộ tuyên bố về vùng lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc. Ngoài ra, việc Thủ tướng Phạm Văn Đồng không nêu tên các quần đảo nói trên là phù hợp với bối cảnh lịch sử lúc đó vì các đảo này đang nằm dưới sự quản lý của Việt Nam Cộng hòa từ năm 1956 như đã nêu ở trên.
Trung Quốc, nước tham gia vào Hội nghị Geneva, chắc chắn hiểu rõ sự thật rằng phạm vi địa lý hành chính của Việt Nam được chia cắt tại vĩ tuyến 17, như đã nêu trong Hiệp định Geneve 1954 về Việt Nam.
Hơn thế nữa, tuyên bố của Trung Quốc rằng không có tranh chấp trong vấn đề đảo Hoàng Sa là đi ngược lại với những gì mà lãnh đạo Trung Quốc đã công nhận.
Ví dụ như, vào tháng 9/1975, Phó Thủ tướng Trung Quốc Đặng Tiểu Bình đã nói với Bí Thư thứ nhất Đảng Lao Động Việt Nam, Lê Duẩn rằng cả Việt Nam và Trung Quốc đều có quan điểm khác nhau về quần đảo Hoàng Sa và cần phải giải quyết vấn đề này thông qua đàm phán.
Lời tuyên bố này đã được Bộ Ngoại giao Trung Quốc đưa vào biên bản ghi nhớ của mình ngày 12/5/1988.
Mặc dù vậy, ông Liu đã có lý khi cho rằng: “Chúng ta không nên chỉ nghe một phía của câu chuyện”. Tôi muốn dùng lời nói này của ông Liu như một cách để mời các độc giả theo dõi câu chuyện từ phía chúng tôi./.