Ngày mai (20/11), Quốc hội sẽ biểu quyết thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật quản lý thuế. Tuy nhiên, trước giờ “G” nhiều vấn đề liên quan đến Luật này vẫn khiến các nhà làm luật và DN băn khoăn.
Khoản 3 Điều 42 Dự thảo luật quy định thời hạn nộp thuế đối với hàng xuất khẩu, nhập khẩu, thời hạn bảo lãnh. Theo đó, quy định cho phép ân hạn thuế 275 ngày đối với doanh nghiệp (DN) sẽ được siết chặt nhằm khắc phục tình trạng chây ỳ, chiếm dụng tiền thuế và bỏ trốn của một số DN.
Theo kiến nghị của VCCI và các DN, với luật thuế hiện hành, hàng hóa nhập khẩu là vật tư, nguyên vật liệu để SXXK sẽ được ân hạn thời gian nộp thuế trong 275 ngày kể từ ngày đăng ký tờ khai hải quan, trường hợp đặc biệt thời hạn nộp thuế có thể dài hơn 275 ngày phù hợp với chu kỳ sản xuất, dự trữ vật tư của DN. Còn với hàng hóa nhập khẩu (NK) khác, DN phải nộp xong thuế khi nhận hàng. Như vậy, với phương án sửa đổi, hàng hóa XK, NK phải nộp xong thuế trước khi được thông quan hoặc giải phóng hàng hóa. Trường hợp được tổ chức tín dụng bảo lãnh, người nộp thuế phải nộp tiền lãi chậm nộp 0,05% ngày tính trên số tiền thuế chậm nộp kể từ ngày thông quan hoặc giải phóng hàng hóa đến ngày hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế.
Theo các hiệp hội ngành hàng, chính sách ân hạn thuế 275 ngày đã tạo nên động lực kích thích phát triển XK và nâng cao năng lực cạnh tranh. Việc bãi bỏ chính sách ân hạn thuế nêu trên sẽ gây nên những tác động tiêu cực cho DN. Trong đó có việc tăng thêm chi phí tài chính lớn do phải nộp thuế nhập khẩu. Hằng năm KNXK Việt Nam đạt gần 100 tỷ USD, giá trị nguyên vật liệu NK để SXXK chiếm khoảng 50%, với mức nộp thuế bình quân khoảng 20% (10% VAT+thuế nhập khẩu). Tiền thuế thu về từ lượng hàng NK đạt trên dưới 10 tỷ USD/năm. Đây là con số quá lớn so với khả năng tài chính của DN trong cả nước, ngoài việc phải huy động nguồn vốn lớn như trên, DN còn chịu chi phí tài chính bình quân 15%/năm trên số tiền nộp thuế (tương đương 1,5 tỷ USD/năm).
Việc thay đổi theo phương án đề xuất cũng làm phát sinh nhiều thủ tục hành chính. Theo các hiệp hội ngành hàng, để thực hiện các thủ tục này, mỗi DN sẽ phải phát sinh 1-2 nhân viên theo dõi vận hành làm tăng nhân sự và chi phí. Với những tác động trên, chi phí DN sẽ tăng cao, ảnh hưởng đến giá XK, làm giảm năng lực cạnh tranh của DN.
Kiến nghị này của Hiệp hội ngành hàng trùng khớp với băn khoăn của một vài thành viên trong Ủy ban Tài chính ngân sách (TCNS), áp dụng ân hạn thuế phải có bảo lãnh của tổ chức tín dụng sẽ làm tăng chi phí, ảnh hưởng đến tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu và duy trì các cân đối vĩ mô của nền kinh tế.
Cũng theo ý kiến của các chuyên gia kinh tế trong Ủy ban TCNS, Chính phủ cần làm rõ căn cứ để quy định thời hạn bảo lãnh đối với từng loại hàng hóa; Rút ngắn thời hạn bảo lãnh đối với hàng gia công xuất khẩu xuống 180 ngày (thay vì 275 ngày như Dự thảo luật) hoặc theo thời gian quy định của chu kỳ sản xuất, gia công hàng xuất khẩu.
Hàng hoá nhập khẩu không được nợ thuế?
Theo báo cáo của Chính phủ trình Quốc hội, Điều 42 Luật hiện hành quy định về thời hạn nộp thuế xuất nhập khẩu đã giúp doanh nghiệp chủ động và linh hoạt sử dụng các luồng tiền để nộp thuế. Tuy nhiên, trên thực tế, do cơ chế thông thoáng trong việc thành lập doanh nghiệp và doanh nghiệp có thể không thường xuyên thực hiện xuất khẩu, nhập khẩu, nên có tình trạng lợi dụng chính sách để chây ỳ nợ thuế, sau đó bỏ trốn hoặc tự giải thể. Đồng thời quy định này dẫn đến sự bất lợi cho hàng hoá sản xuất trong nước so với hàng nhập khẩu.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, đa số các nước không cho nợ thuế đối với hàng hoá nhập khẩu, phải nộp thuế trước khi nhận hàng (Thái Lan, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Campuchia, Lào...); Một số nước cho chậm nộp thuế nhưng phải có bảo lãnh (Anh), hoặc cho nộp chậm với điều kiện có tài khoản do cơ quan Hải quan quản lý để đảm bảo việc nộp thuế (New Zealand).
Để khắc phục tình trạng trên, Dự thảo Luật sửa đổi Điều 42 theo hướng: Người nộp thuế phải nộp thuế trước thời điểm thông quan hoặc giải phóng hàng và áp dụng ân hạn nộp thuế chỉ khi có bảo lãnh của tổ chức tín dụng (275 ngày đối với nguyên vật liệu để sản xuất hàng xuất khẩu, 15 ngày đối với hàng hoá tạm nhập tái xuất, 30 ngày đối với trường hợp khác). Đến ngày cuối cùng của thời hạn bảo lãnh ghi trên thư bảo lãnh nếu người nộp thuế chưa nộp tiền thuế, tiền chậm nộp (nếu có), tổ chức nhận bảo lãnh phải nộp đủ tiền thuế và tiền chậm nộp (nếu có) theo mức 0,07%/ngày tính trên số tiền thuế chậm nộp thay cho người nộp thuế.
Có ý kiến trong Ủy ban TCNS cho rằng, mức xử phạt được quy định trong Dự thảo luật chưa có sự phân biệt dựa trên tần suất và mức độ vi phạm, dẫn đến chưa bảo đảm công bằng, tính răn đe chưa cao. Vì vậy, đề nghị bổ sung quy định về chế tài xử phạt theo hướng tăng nặng mức phạt đối với các trường hợp cố tình vi phạm, có hành vi vi phạm tái diễn nhiều lần, mức độ vi phạm lớn.
Theo Tổng cục Hải quan, khi đưa ra đề xuất định DN chỉ được ân hạn thuế khi có bảo lãnh, ban soạn thảo sửa đổi, bổ sung Luật Quản lý thuế đã nghiên cứu kỹ, đưa vấn đề này ra lấy ý kiến các bộ, ngành và cộng đồng DN và đến nay cơ bản nhận được sự đồng thuận.
Bên cạnh đó, theo chủ trương của Đảng, Nhà nước là khuyến khích ưu tiên tiêu dùng hàng nội, do đó cũng phải tính đến những điều chỉnh về chính sách thuế để khuyến khích DN sử dụng nguyên liệu trong nước đưa vào sản xuất, nhất là sản xuất để XK… Trong bối cảnh hiện nay, các quy định về pháp luật của Việt Nam sẽ dần phải sửa đổi phù hợp với các thông lệ quốc tế./.