Thảo luận về tình hình kinh tế-xã hội, sáng nay (2/6), nhiều Đại biểu Quốc hội cho rằng, từ đầu tháng 5 đến nay, Trung Quốc đưa giàn khoan vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, vi phạm nghiêm trọng chủ quyền của nước ta. Việc này nếu không được ngăn chặn sẽ làm tác động đáng kể tới quan hệ thương mại giữa Việt Nam – Trung Quốc.
Đại biểu Vũ Tiến Lộc (đoàn Thái Bình) – Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho rằng: Kỳ họp Quốc hội lần này diễn ra trong một bối cảnh đặc biệt. Việt Nam đang đứng trước ngưỡng cửa các hiệp định thương mại tự do với các đối tác lớn nhất trên Thế giới, trước hết là Hiệp định với các đối tác xuyên Thái Bình Dương đang đi vào giai đoạn nước rút và Hiệp định thương mại tự do Việt Nam- EU dự kiến kết thúc đàm phán cuối năm nay.
“Việc chuẩn bị để đất nước sẵn sàng đón nhận các cơ hội và vượt qua những thách thức từ các hiệp định thương mại tự do được đặt ra ở thời điểm này cấp bách hơn bao giờ hết” – ông Vũ Tiến Lộc khẳng định.
Ở góc độ kinh tế, theo ông Vũ Tiến Lộc, Việt Nam đang đứng trước những đòi hỏi mới trong việc duy trì quan hệ thương mại ổn định với Trung Quốc, đồng thời tăng cường các biện pháp hạn chế sự phụ thuộc quá lớn vào thị trường này. Tận dụng cơ hội từ các hiệp định thương mại tự do đầy triển vọng nói trên, có thể là một cách thức hữu hiệu nhằm đạt được mục tiêu này.
Ông Vũ Tiến Lộc khẳng định: “Các hiệp định thương mại tự do không chỉ mở ra các cơ hội phát triển mà còn là cơ hội để Việt Nam giảm bớt và thoát khỏi tình trạng lệ thuộc quá nhiều vào thị trường Trung Quốc, để bảo đảm sự phát triển bền vững và cân bằng của nền kinh tế”.
Thực tế hiện nay, theo ông Vũ Tiến Lộc, về nguồn cung ứng đầu vào sản xuất trong ngành dệt may, một số nguyên phụ liệu chúng ta đã phải nhập 50 – 60% từ thị trường Trung Quốc. Và có tới 90% hợp đồng EPC trong dự án nhiệt điện do nhà thầu Trung Quốc thi công. Nguyên nhân chủ yếu là do nguồn cung ứng tín dụng và vật tư nguyên liệu hàng hóa từ Trung Quốc rất dồi dào và tương đối rẻ so với các đối thủ cạnh tranh.
Với cam kết loại bỏ và ít nhất là giảm thấp nhất thuế quan vào hàng rào cản kỹ thuật trong các hiệp định thương mại tự do từ các đối tác thương mại hàng đầu trên thế giới ở thời gian tới, Việt Nam sẽ có điều kiện nhập khẩu từ Hoa Kỳ, từ EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia, New Zealand, Nga…và các nền kinh tế khác máy móc, thiết bị, dịch vụ, nguyên liệu đầu vào, hàng tiêu dùng. “Việt Nam có thể tận dụng những lợi thế này để cạnh tranh với các nguồn nguyên liệu đầu vào giá rẻ đồng thời thu hút đầu tư phát triển công nghiệp hỗ trợ để giảm nhập khẩu đầu vào trong một số lĩnh vực trọng điểm của kinh tế Việt Nam” – ông Vũ Tiến Lộc nhấn mạnh về giải pháp giảm lệ thuộc kinh tế Trung Quốc.
Đang bỏ trứng tất cả vào chung một giỏ
Về đầu ra của nền kinh tế, theo số liệu chính thức được ông Vũ Tiến Lộc dẫn ra trước Quốc hội, Trung Quốc chiếm khoảng 10% xuất khẩu Việt Nam, tuy không phải là thị trường xuất khẩu lớn nhất nhưng Trung Quốc lại là thị trường xuất khẩu rau quả lớn nhất của Việt Nam và Trung Quốc cũng là thị trường tiêu thụ một lượng gạo không nhỏ và nhiều nông sản khác của Việt Nam. Do đó, thị trường này có nhiều ảnh hưởng tới thu nhập của một bộ phận đáng kể và nông dân và những người sản xuất nông nghiệp của nước ta.
Vẫn biết rằng giá xuất khẩu sang Trung Quốc là rẻ mạt, có mặt hàng chỉ bằng 1/10 giá bán ở thị trường các nước phương Tây và luôn có rủi ro rình rập nhưng chúng ta vẫn tiếp tục xuất khẩu sang thị trường này bởi hàng rào thuế quan nhập khẩu ở các thị trường Âu – Mỹ còn cao. Chúng ta chưa có được nền công nghiệp chế biến phát triển và chưa biết cách nào để vượt qua khoảng cách xa xôi, bảo quản dài ngày trong quá trình vận chuyển và chưa đáp ứng được tiêu chuẩn kỹ thuật và vệ sinh an toàn thực phẩm hết sức ngặt nghèo của những khách hàng giàu có và khó tính trên thế giới.
Vì vậy, để đầu tư đủ mức cho các chuỗi hàng hóa đầu ra cho các sản phẩm đặc biệt là nông sản Việt Nam tại các thị trường khó tính nhưng đầy tiềm năng của thế giới, theo ông Vũ Tiến Lộc, rất cần tìm ra những lối ra cho nền kinh tế, để tránh tình trạng lệ thuộc bỏ trứng tất cả vào chung một giỏ như hiện nay. Nhưng cũng cần thừa nhận một thực tế là, chúng ta đang kinh doanh trong một nền thương mại kinh tế toàn cầu, nơi mọi doanh nghiệp, mọi nền kinh tế đều có sự ràng buộc, liên hệ chặt chẽ đến nhau. Điều này đúng cả với Việt Nam và Trung Quốc.
Trong những lúc có nhiều người lo ngại vào hành động trả đũa ngược của Trung Quốc đối với Việt Nam khi tranh chấp Biển Đông đang leo thang như đóng cửa biên giới, dừng các hoạt động xuất nhập khẩu với Việt Nam thì cũng có không ít ý kiến cho rằng, Trung Quốc không dễ gì làm được điều đó. Ít nhất là ở góc độ chính thức và ở quy mô lớn.
Chúng ta biết rằng, các hoạt động giao thương với Việt Nam đang là nguồn thu chính cho một số tỉnh nghèo của Trung Quốc. Việt Nam cũng là thị trường lớn nhất Đông Nam Á của các nhà thầu Trung Quốc. Nhà đầu tư Trung Quốc đang có lợi ích lớn, nhỏ từ các dự án đầu tư trực tiếp hoặc gián tiếp tại Việt Nam. Tất cả những điều này khiến người ta phải suy nghĩ trước khi áp dụng biện pháp nào.
Về phía Việt Nam, dù muốn mở rộng nguồn cung tới đâu, dù có đa dạng hóa thị trường đầu ra tới mức nào, Việt Nam cũng không thể bỏ qua nguồn nguyên liệu phong phú bậc nhất của Trung Quốc, không mua các sản phẩm hợp lý từ công xưởng lớn nhất của thế giới và không bán hàng sang thị trường đông dân nhất thế giới./.