Chính phủ vừa ban hành Nghị định về Quy chế quản lý tài chính của Công ty mẹ - Tập đoàn Dầu khí Việt Nam.
Theo đó, vốn của Công ty mẹ - Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (Công ty mẹ) bao gồm vốn do Nhà nước đầu tư tại Công ty mẹ, vốn do Công ty mẹ tự huy động và các nguồn vốn khác theo quy định của pháp luật. Công ty mẹ có trách nhiệm tổ chức hạch toán, theo dõi riêng từng nguồn vốn theo quy định hiện hành.
Vốn điều lệ của Công ty mẹ được quy định tại Điều lệ tổ chức và hoạt động của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam. Công ty mẹ không được giảm vốn điều lệ. Trong quá trình kinh doanh, tuỳ theo yêu cầu phát triển từng thời kỳ, Thủ tướng Chính phủ quyết định việc điều chỉnh vốn điều lệ của Công ty mẹ theo đề nghị của Bộ Công Thương, ý kiến của Bộ Kế hoạch và Đầu tư và thẩm định của Bộ Tài chính. Khi điều chỉnh vốn điều lệ, Công ty mẹ đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh và công bố vốn điều lệ đã điều chỉnh.
Chủ sở hữu chỉ được rút vốn đã đầu tư tại Công ty mẹ thông qua hình thức chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần vốn của Công ty mẹ cho các tổ chức, cá nhân khác.
Sử dụng vốn linh hoạt, chịu trách nhiệm về bảo toàn, phát triển vốn
Theo Nghị định, Công ty mẹ được quyền quản lý và sử dụng linh hoạt toàn bộ số vốn do Nhà nước đã đầu tư, các loại nguồn vốn hợp pháp khác vào hoạt động sản xuất kinh doanh với mục tiêu thu lợi nhuận; chịu trách nhiệm trước chủ sở hữu về bảo toàn, phát triển vốn, hiệu quả sử dụng vốn; đảm bảo quyền lợi của những người liên quan đến Công ty mẹ như các chủ nợ, khách hàng, người lao động theo các hợp đồng đã giao kết.
Trường hợp Công ty mẹ tạm thời sử dụng tiền nhàn rỗi các quỹ thuộc phạm vi quản lý để đầu tư và sản xuất kinh doanh thì phải đảm bảo đủ nguồn chi của các quỹ đó khi có nhu cầu sử dụng. Việc sử dụng vốn, quỹ để đầu tư xây dựng phải theo các quy định của pháp luật về quản lý đầu tư và xây dựng.
Công ty mẹ trực tiếp quản lý và hạch toán toàn bộ vốn góp của Chính phủ Việt Nam trong Liên doanh Việt-Nga "Vietsovpetro" theo Hiệp định liên Chính phủ ký ngày 27/12/2010 và quy định của pháp luật Việt Nam, Công ty mẹ có trách nhiệm quản lý, sử dụng có hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn được giao.
Nghị định nhấn mạnh, mọi biến động về tăng, giảm vốn chủ sở hữu, Công ty mẹ phải báo cáo chủ sở hữu và cơ quan tài chính để theo dõi, giám sát. Định kỳ 6 tháng, hàng năm doanh nghiệp phải đánh giá hiệu quả sử dụng vốn thông qua chỉ tiêu mức độ bảo toàn vốn theo hướng dẫn của Bộ Tài chính.
Huy động vốn phục vụ sản xuất kinh doanh
Công ty mẹ được huy động vốn để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh và đầu tư của mình theo hình thức: phát hành trái phiếu, vay vốn của tổ chức tín dụng và các tổ chức tài chính khác, của cá nhân, tổ chức ngoài doanh nghiệp; vay vốn của người lao động và các hình thức huy động vốn khác theo quy định của pháp luật. Việc huy động vốn để kinh doanh thực hiện theo nguyên tắc tự chịu trách nhiệm hoàn trả, đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn huy động, không được làm thay đổi hình thức sở hữu của Công ty mẹ.
Theo Nghị định, thẩm quyền phê duyệt hợp đồng vay vốn được thực hiện như sau: Hội đồng thành viên Công ty mẹ quyết định hợp đồng vay vốn có giá trị đến dưới 30% vốn điều lệ phù hợp với các quy định của pháp luật và phải đảm bảo hệ số an toàn nợ phải trả trên vốn chủ sở hữu không vượt quá 3 lần, bao gồm cả các khoản bảo lãnh vay vốn đối với doanh nghiệp có vốn góp của Công ty mẹ theo quy định. Trường hợp Công ty mẹ có tổng nhu cầu huy động vốn vượt mức phân cấp nêu trên, Hội đồng thành viên Công ty mẹ phải báo cáo Bộ Công Thương xem xét, phê duyệt chủ trương trước khi quyết định. Bộ Công Thương có trách nhiệm thông báo với Bộ Tài chính để phối hợp theo dõi và giám sát.
Không được góp vốn vào DN bất động sản
Nghị định nêu rõ, Công ty mẹ được quyền sử dụng vốn, tài sản thuộc quyền quản lý của mình để đầu tư ra ngoài Công ty mẹ. Việc sử dụng tài sản có liên quan đến đất đai để đầu tư ra ngoài Công ty mẹ phải tuân thủ các quy định của pháp luật về đất đai.
Các hình thức đầu tư ra ngoài Công ty mẹ cũng được nêu rõ tại Nghị định, gồm: Đầu tư thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên; Góp vốn để thành lập công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, công ty liên doanh, công ty liên kết; góp vốn vào các Hợp đồng hợp tác kinh doanh không hình thành pháp nhân mới; Mua cổ phần hoặc góp vốn tại các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty liên doanh, công ty hợp danh; Mua lại một công ty khác; Mua công trái, trái phiếu để hưởng lãi và các hình thức đầu tư khác theo quy định của pháp luật.
Đặc biệt, theo Nghị định, Công ty mẹ không được góp vốn vào doanh nghiệp kinh doanh bất động sản hoặc đầu tư các dự án bất động sản, không được góp vốn, mua cổ phần tại ngân hàng, công ty bảo hiểm, công ty chứng khoán, Quỹ đầu tư mạo hiểm, quỹ đầu tư chứng khoán hoặc công ty đầu tư chứng khoán, trừ những trường hợp đặc biệt theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
Đối với khoản vốn đã góp, đầu tư tại các lĩnh vực nêu trên không thuộc trường hợp được Thủ tướng Chính phủ cho phép đầu tư, Công ty mẹ có trách nhiệm lập phương án cơ cấu lại, thoái hết số vốn đã đầu tư theo quy định.
Công ty mẹ không được đầu tư hoặc góp vốn mua cổ phần của các doanh nghiệp khác mà người quản lý, điều hành hoặc người sở hữu chính của doanh nghiệp này là vợ hoặc chồng, bố, mẹ, con, anh, chị em ruột của thành viên Hội đồng thành viên, Kiểm soát viên, Ban Giám đốc và kế toán trưởng Công ty mẹ.
Ngoài ra, Nghị định cũng quy định rõ việc quản lý và sử dụng tài sản của công ty mẹ; chế độ thu chi tài chính; lợi nhuận và trích lập các quỹ; quản lý vốn của công ty mẹ đầu tư vào doanh nghiệp khác...
Tăng tỷ lệ trích thưởng cho cán bộ Kiểm toán Nhà nước
Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 02/2015/NĐ-CP. Nghị định này đã sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 162/2006/NĐ-CP đã được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 32/2011/NĐ-CP ngày 16/5/2011 của Chính phủ.
Cụ thể, tại Nghị định 32/2011/NĐ-CP, chế độ ưu tiên đối với cán bộ, công chức và người lao động thuộc Kiểm toán Nhà nước quy định: Hằng năm, căn cứ vào kết quả thực hiện kiến nghị kiểm toán, Kiểm toán Nhà nước được trích 2% số tiền do Kiểm toán Nhà nước phát hiện và kiến nghị bao gồm các khoản tăng thu ngân sách Nhà nước về thuế, phí, lệ phí và các khoản khác đã nộp vào ngân sách Nhà nước; các khoản chi ngân sách sai chế độ đã nộp lại ngân sách Nhà nước; các khoản chi ngân sách sai chế độ đã xử lý giảm chi, giảm thanh toán vào ngân sách năm sau.
Số kinh phí 2% nêu trên được sử dụng chi khuyến khích, thưởng cho cán bộ, công chức và người lao động thuộc Kiểm toán Nhà nước không vượt quá 0,8 lần mức lương chức vụ hoặc mức lương chuyên môn, nghiệp vụ cộng với phụ cấp chức vụ lãnh đạo, phụ cấp ưu đãi theo nghề, phụ cấp thâm niên nghề và phụ cấp thâm niên vượt khung (nếu có).
Số kinh phí còn lại sau khi chi khuyến khích, thưởng cho cán bộ, công chức và người lao động thuộc Kiểm toán Nhà nước, được sử dụng để đầu tư cơ sở vật chất và tăng cường năng lực hoạt động của ngành.
Tăng tỷ lệ trích thưởng
Nay, tại Nghị định số 02/2015/NĐ-CP, chế độ ưu tiên này được sửa đổi là hằng năm, căn cứ vào kết quả thực hiện kiến nghị kiểm toán, Kiểm toán Nhà nước được trích 5% số tiền do Kiểm toán Nhà nước phát hiện và kiến nghị, bao gồm các khoản tăng thu ngân sách Nhà nước về thuế, phí, lệ phí và các khoản thu khác đã thực nộp vào ngân sách Nhà nước; các khoản đã thực chi ngân sách sai chế độ đã nộp lại ngân sách Nhà nước; các khoản đã thực chi ngân sách sai chế độ đã xử lý giảm chi, giảm thanh toán vào ngân sách năm sau.
Số kinh phí 5% này được sử dụng cho chi khuyến khích, thưởng cho cán bộ, công chức và người lao động của Kiểm toán Nhà nước không vượt quá 0,8 lần lương cấp bậc, phụ cấp chức vụ, vượt khung và phụ cấp nghề nghiệp.
Số kinh phí còn lại sau khi chi khuyến khích, thưởng cho cán bộ, công chức và người lao động thuộc Kiểm toán Nhà nước, được sử dụng để đầu tư cơ sở vật chất và tăng cường năng lực hoạt động của ngành.
Như vậy, so với quy định cũ, Nghị định số 02/2015/NĐ-CP cho phép Kiểm toán Nhà nước được trích thêm 3% số tiền do Kiểm toán Nhà nước phát hiện và kiến nghị để thực hiện chế độ ưu tiên đối với cán bộ, công chức và người lao động thuộc Kiểm toán Nhà nước.
Đồng thời, Nghị định cũng đã thay đổi một số quy định về nguồn và nội dung thực hiện chế độ ưu tiên này.
Triển khai thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự
Thủ tướng Chính phủ vừa ban hành Kế hoạch triển khai thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự.
Kế hoạch nhằm xác định cụ thể các nội dung công việc, thời hạn, tiến độ hoàn thành và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức có liên quan trong việc tổ chức triển khai thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự, bảo đảm kịp thời, đầy đủ, thống nhất, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.
Bên cạnh đó, xây dựng cơ chế phối hợp giữa các Bộ, ngành, địa phương trong việc tiến hành các hoạt động triển khai thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự trên phạm vi cả nước.
Cụ thể, Bộ Tư pháp chủ trì xây dựng: Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Thi hành án dân sự và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự; Thông tư liên tịch giữa Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn việc miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu, nộp ngân sách nhà nước. Cả hai văn bản trên được ban hành vào tháng 5/2015.
Bên cạnh đó, rà soát các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự; đề xuất sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật, quy chế phối hợp bảo đảm thi hành hiệu quả Luật Thi hành án dân sự và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành án dân sự.
Năm 2015 và các năm tiếp theo, tổ chức giới thiệu, tuyên truyền, phổ biến nội dung và những điểm mới của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự bằng các hình thức phù hợp với điều kiện, tình hình thực tế của địa phương và từng đối tượng, địa bàn.
Cũng theo Kế hoạch, Bộ Tư pháp chủ trì kiện toàn tổ chức hệ thống thi hành án dân sự, trong đó chú trọng việc bổ nhiệm Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự và Chấp hành viên tại các khu vực biên giới, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn theo quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự.
Xây dựng Cổng Thông tin điện tử TBT
Trên cơ sở đề nghị của Bộ Khoa học và Công nghệ về phương án xây dựng hệ thống thông tin trực tuyến của mạng lưới cơ quan Thông báo và Điểm hỏi đáp của Việt Nam về hàng rào kỹ thuật trong thương mại (Mạng lưới TBT Việt Nam) và cơ sở dữ liệu về TBT, Thủ tướng Chính phủ đồng ý về nguyên tắc việc xây dựng Cổng Thông tin điện tử TBT.
Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Khoa học và Công nghệ tiếp thu ý kiến của các Bộ, cơ quan liên quan để hoàn chỉnh, phê duyệt Đề án và triển khai thực hiện.
Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bộ Khoa học và Công nghệ triển khai thực hiện xây dựng Cổng Thông tin điện tử TBT phải đảm bảo yêu cầu gắn kết với các hệ thống thông tin hiện có để tiết kiệm và phát huy hiệu quả việc ứng dụng công nghệ thông tin trong các cơ quan nhà nước theo các định hướng và quy định hiện hành.
Đồng thời phát huy khả năng huy động các nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước để thực hiện Đề án. Về nguồn, mức kinh phí từ ngân sách nhà nước, Bộ Khoa học và Công nghệ thống nhất với Bộ Tài chính để xem xét, bố trí theo đúng quy định hiện hành, bảo đảm tiết kiệm, không lãng phí.
Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Khoa học và Công nghệ hướng dẫn các Bộ, ngành, cơ quan, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cung cấp, quản lý và xử lý thông tin để bảo đảm việc xây dựng và vận hành có hiệu quả Cổng Thông tin điện tử TBT.
* TBT là viết tắt của cụm từ tiếng Anh “Technical Barriers to Trade” được dịch là Hàng rào kỹ thuật trong thương mại, đó là các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật mà một nước áp dụng đối với hàng hoá nhập khẩu và/hoặc quy trình nhằm đánh giá sự phù hợp của hàng hoá nhập khẩu đối với các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật đó (còn gọi là các biện pháp kỹ thuật – biện pháp TBT).
Ngày 26/5/2005, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 114/2005/QĐ-TTg thành lập Mạng lưới cơ quan Thông báo và Điểm hỏi đáp của Việt Nam về hàng rào kỹ thuật trong thương mại (mạng lưới TBT Việt Nam) nhằm thực hiện đầy đủ và kịp thời các nghĩa vụ của Việt Nam về thông báo và hỏi đáp các vấn đề liên quan đến việc thực thi Hiệp định TBT của WTO.
Dự án “Hỗ trợ sử dụng quy mô điện gió”
Thủ tướng Chính phủ vừa phê duyệt danh mục Dự án "Hỗ trợ sử dụng quy mô điện gió" sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức không hoàn lại của Chính phủ Đức.
Dự án trên được thực hiện tối đa 4 năm với tổng kinh phí 7 triệu Euro.
Mục tiêu của Dự án nhằm cải thiện các điều kiện khung pháp lý cho quá trình phát triển, thúc đẩy và mở rộng quy mô phát triển điện gió tại Việt Nam, góp phần đạt được mục tiêu quốc gia về phát triển năng lượng tái tạo và tăng trưởng xanh của Việt Nam.
Cụ thể, Dự án sẽ hỗ trợ các cơ quan nhà nước thu thập đầy đủ số liệu và đề xuất các dự án khi đưa ra quyết định nhằm cải thiện quá trình quy hoạch cũng nhu khung pháp lý cho phát triển điện gió ở Việt Nam.
Đồng thời, năng lực thực hiện trong khối nhà nước (từ cơ quan trung ương đến địa phương) và khu vực tư nhân được nâng cao sẽ giúp điện gió phát triển nhanh; Hợp tác công nghệ và nghiên cứu được thực hiện sẽ tạo ra cơ hội nội địa hóa và tăng giá trị thiết bị trong lĩnh vực điện gió./.