Việt Nam có 8 di sản vật thể được UNESCO vinh danh: Quần thể di tích cố đô Huế, Khu phố cổ Hội An, Khu di tích đền tháp Thánh địa Mỹ Sơn (Quảng Nam), Khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long (Hà Nội), Thành nhà Hồ (Thanh Hóa), Vịnh Hạ Long (Quảng Ninh), Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng (Quảng Bình), Quần thể danh thắng Tràng An - Ninh Bình (Ninh Bình).

23 năm kể từ ngày di sản đầu tiên (quần thể di tích cố đô Huế) được UNESCO vinh danh năm 1993, đến nay Việt Nam vẫn chưa có được mô hình quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị di sản phù hợp, vẫn “hồn ai nấy giữ” ở từng địa phương.

2_qcfo_fubl.jpg
Cổng chính vào Hoàng thành, cố đô Huế (Ảnh: Hà Thành).

Di sản là của chung hay của riêng ?

Theo “định giá” của UNESCO, mỗi di sản sau khi được vinh danh có một “giá trị gốc” ước tính 500 triệu USD, giá trị này sẽ tăng theo thời gian như một “thương hiệu” nếu biết khai thác đúng “chuẩn”.

Theo đánh giá của Cục Di sản văn hóa, khi được UNESCO vinh danh, các di sản này là nguồn tài nguyên vật chất, cung cấp các sản phẩm, loại hình dịch vụ du lịch, văn hóa, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương nói riêng, của Việt Nam nói chung.

Nhưng tính từ năm 1993, khi Việt Nam được UNESCO vinh danh di sản đầu tiên đến nay, thế mạnh ấy không những chưa được khai thác, phát huy đúng tầm mà một số di sản còn đang rơi vào tình trạng báo động vì thiếu sự quản lý thống nhất dẫn đến nhiều hệ lụy phát sinh trong công tác bảo tồn, khai thác di sản.

Không thể phủ nhận nguồn lợi từ di sản mang đến cho sự tăng trưởng kinh tế của địa phương. Người dân tại khu vực có di sản cũng có điều kiện cải thiện đời sống nhờ tham gia làm du lịch, các dịch vụ phục vụ và còn là tiền đề khôi phục những làng nghề thủ công sản xuất vật phẩm lưu niệm có giá trị... Mặc dù vậy, việc khai thác, bảo tồn và phát huy giá trị hệ thống di sản thế giới ở Việt Nam đang đối mặt với những thách thức không nhỏ.

Vịnh Hạ Long (Ảnh: Hà Phương).

Ở tầm vĩ mô , theo những người quản lý di sản, nguyên nhân cơ bản khiến việc khai thác di sản thế giới ở Việt Nam chưa hợp lý là do thiếu mô hình quản lý thống nhất, còn có sự chồng chéo, mạnh ai nấy làm, “hồn ai nấy giữ”.

Hiện nay, các quy định, quy chế quản lý, bảo tồn, phát huy di sản thế giới ở nước ta còn thiếu, chưa đồng bộ. Ví dụ như Hội An, Mỹ Sơn chưa có kế hoạch quản lý tổng hợp theo Hướng dẫn thực hiện công ước di sản thế giới năm 1972.

Mô hình phân cấp quản lý di sản thế giới không có sự thống nhất. Bộ máy quản lý di sản Vịnh Hạ Long, Phong Nha - Kẻ Bàng, Cố đô Huế, Hoàng thành Thăng Long do UBND tỉnh, thành phố trực tiếp quản lý; Phố cổ Hội An trực thuộc TP Hội An, khu Mỹ Sơn trực thuộc UBND huyện Duy Xuyên (Quảng Nam); Thành nhà Hồ thuộc Sở VH,TT&DL Thanh Hóa nhưng một phần diện tích Thành Nội của di sản này vẫn thuộc quyền quản lý của chính quyền địa phương…

Việc nhiều chủ thể cùng tham gia quản lý một di sản chẳng khác nào chủ nhà không có quyền xử lý những việc xảy ra trong ngôi nhà của mình. Sự thiếu thống nhất trong quản lý dẫn đến nhiều vấn đề như sự phối hợp giữa các đơn vị trực tiếp quản lý di sản với các cơ quan chức năng còn lỏng lẻo; quy định quản lý, sử dụng nguồn thu, cơ cấu chi cho di sản không nơi nào giống nơi nào…

Nhưng ở tầm vi mô, thì địa phương nào có di sản, thì xem như là của Trời cho “nhà” mình, và “bo bo” giữ, độc chiếm khai thác theo ý mình, thậm chí còn mang tư tưởng “ăn xổi ở thì”, chưa kể việc tự ý thay đổi nguyên trạng nguyên gốc trong công tác bảo tồn.

Phố cổ Hội An (Ảnh: Hà Thành)

Muốn kết nối di sản cần một “nhạc trưởng” tài ba

Hiện tại Việt Nam với 8 di sản thế giới như một “đường dây” từ Bắc xuống Nam: Bắt đầu bằng Vịnh Hạ Long (Quảng Ninh) - Kinh thành Thăng Long (Hà Nội) - Danh thắng Tràng An (Ninh Bình) - Thành nhà Hồ (Thanh Hóa) - Động Phong Nha - Kẻ Bàng (Quảng Bình) - Cố đô Huế (Thừa Thiên - Huế) - Kết thúc ở Thánh địa Mỹ Sơn và Phố cổ Hội An (Quảng Nam). Nếu biết liên kết thì sẽ tạo thành một thể thống nhất được khai thác rất hiệu quả.

Các chuyên gia về bảo tồn di sản cho rằng, mỗi di sản thế giới có đặc thù riêng song rất cần sự thống nhất trong quản lý, điều hành, cần có quy chế quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị các khu di sản thế giới.

Một thực tế dễ nhận thấy là hầu hết các di sản ở Việt Nam đã có quy hoạch tổng thể bảo tồn, phát huy giá trị, được quan tâm tu bổ, bảo quản, chống xuống cấp, giữ gìn môi trường, cảnh quan thiên nhiên… Song, quy chế quản lý, bảo tồn còn thiếu và chưa đồng bộ. Bộ máy quản lý các di sản hiện nay rất khác nhau, việc phân cấp, giao trách nhiệm cho các đơn vị quản lý còn nhiều bất cập, chưa tương xứng với tầm vóc các di sản thế giới.

Đến lúc phải xóa bỏ tư duy di sản ở đâu thì ở đó hưởng lợi. Phải thấy rõ di sản là của chung, là “của để dành” ông cha để lại cho con cháu nước Việt. 

Để quản lý, bảo tồn và phát huy tốt một di sản văn hóa đòi hỏi phải có sự thống nhất điều hành của một cấp quản lý hành chính nhà nước nhất định, toàn diện và trực tiếp, đủ sức làm “nhạc trưởng” để gắn kết được các “nhà”: Nhà quản lý, Nhà khoa học và Nhà dân (trong đó địa phương có di sản sẽ đại diện).

Khung cảnh non nước hữu tình của Tràng An chẳng khác một vịnh Hạ Long thứ hai (Ảnh: Vũ Bích Ngọc)

Bộ VHTTDL cũng cần sớm xây dựng Quy chế phối hợp giữa các ban ngành để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động quản lý di sản tại địa phương. Kết nối các di sản thế giới ở Việt Nam, còn đòi hỏi tăng cường kết nối, phối hợp chặt chẽ giữa các ngành, các cấp, địa phương, doanh nghiệp và người dân để xây dựng, phát triển kinh tế du lịch ngày càng có sự đóng góp lớn hơn vào sự phát triển chung của đất nước.

Kết nối các di sản thế giới ở Việt Nam đã đến lúc không chỉ là khẩu hiệu suông mà mong nó là hiện thực bắt đầu ngay từ bây giờ, để di sản không còn trong tình trạng “hồn ai nấy giữ” mang tính nhỏ lẻ manh mún./.