Ngày 7/9/1945, Đài Tiếng nói Việt Nam (ĐTNVN) được thành lập. Cũng vào ngày này, Chương trình phát thanh tiếng Anh, tiếng Pháp cũng phát sóng chương trình đầu tiên, tuyên truyền cuộc đấu tranh chính nghĩa, anh dũng của dân tộc Việt Nam, kêu gọi sự ủng hộ của nhân dân thế giới đối với cuộc đấu tranh này.

Bước vào thời kỳ chiến tranh chống Mỹ sau năm 1954, để mở rộng hoạt động tuyên truyền, Đài TNVN thành lập thêm một số chương trình phát thanh tiếng nước ngoài khác trong đó có chương trình phát thanh tiếng Nhật.
vov_dang_tien1_gfsz.jpg
Tổng Giám đốc Nguyễn Đăng Tiến trong lần thăm NHK

Chương trình tiếng Nhật, Đài TNVN trở thành nơi tiếp nhận tình cảm, sự ủng hộ vật chất, tinh thần của nhân dân Nhật Bản, hướng tới nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Qua làn sóng Đài Tiếng nói Việt Nam-phương tiện gần như duy nhất lúc bấy giờ phản ánh tình hình của Việt Nam đến với bạn bè trên thế giới.

Tình yêu từ trong khói lửa chiến tranh

Ngày 29/4/1963, chương trình phát thanh Tiếng Nhật đầu tiên được phát sóng với sự giúp đỡ của một số chuyên gia do Đảng Cộng sản Nhật Bản và hãng Denpa News cử sang vừa làm biên tập viên kiêm phát thanh viên.

Lúc đó, biên tập người Việt Nam chỉ có biên tập viên Bạch Vân (sau này trở thành một trong những người giỏi tiếng Nhật hàng đầu của Việt Nam), bà Nguyễn Thị Tuyết và ông Trần Tự.

Vào thời gian này, Mỹ leo thang cuộc chiến tranh tại Việt Nam, dùng không quân đánh phá miền Bắc, miền Bắc chìm trong khói lửa. Tại Nhật Bản, các cuộc biểu tình phản đối chiến tranh tại Việt Nam diễn ra sôi nổi, thu hút sự tham gia đông đảo các tầng lớp nhân dân Nhật Bản. Chương trình tiếng Nhật trở thành cầu nối quan trọng đặc biệt giữa nhân dân hai nước.

Trong những năm tháng này, trung bình mỗi tháng có từ 4.000 – 5.000 lá thư của thính giả Nhật gửi về Đài TNVN. Tất cả các lá thư đó vừa bày tỏ sự ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, khích lệ, động viên anh chị em biên tập công tác, tiếp tục làm nhiệm vụ chính trị quan trọng, thông tin về đời sống, tinh thần lạc quan của con người Việt Nam trong thời chiến. Đặc biệt, chương trình tiếng Nhật có nhiệm vụ kêu gọi sự ủng hộ của bạn bè Nhật Bản và quốc tế ủng hộ cho cuộc giải phóng con người ở Việt Nam.

Nhà báo Murano Hiroshi 

Nhà báo Murano Hiroshi năm nay đã gần 80 tuổi tâm sự rằng: Vào những năm 60 của thế kỷ trước, ông đã cùng nhiều thanh niên Nhật Bản đã tham gia vào cuộc biểu tình chống phản đối chiến tranh tại Việt Nam. Với ông lúc đó tuy chưa một lần tới Việt Nam, nhưng cuộc chiến tranh Việt Nam, con người Việt Nam lúc đó đã trở thành biểu tượng của tự do. Qua Đài TNVN, ông cảm nhận được nỗi khát khao độc lập của Việt Nam và sự tàn khốc của chiến tranh. 

Cũng chính lúc này bà Nakamura Nobuko, vợ của nhà nông học nổi tiếng Lương Định Của, đã đến làm việc tại chương trình Tiếng Nhật, giúp biên tập phần tiếng Nhật, đọc chương trình trên sóng. Và cũng chính bà là người vào thời khắc lịch sử ngày 30/4/1975 đã truyền đi bản tin tiếng Nhật về chiến thắng.

Sau này qua lời kể của bà, thời khắc đó là kỷ niệm khó quên trong cuộc đời Bà Nakamura Nobuko trở thành nhân chứng cho chiến thắng của một dân tộc nhỏ bé trước một cường quốc. Bà trở thành người con của Việt Nam. Trong vòng 12 năm bã đã gắn bó với chương trình phát thanh Tiếng Nhật. Tất cả những người đã từng gặp bà đều gọi bà là "Chị Của”. 

Năm 2010, dù đã ở tuổi 88 bà đã cho ra cuốn hồi ký “Gió từ Hà Nội” viết về người chồng thân yêu của mình, và thời gian quí báu làm việc tại chương trình tiếng Nhật Đài Tiếng nói Việt Nam. Cuốn sách này cũng đã được giới thiệu trong chuyên mục Bức thư Hà Nội của chương trình phát thanh tiếng Nhật thể hiện mối tình của một người Nhật đã gắn bó với Việt Nam trong cả cuộc đời.

Chính mối tình của bà Nakamura và Giáo sư Lương Định Của là minh chứng cho sự giao kết giữa hai dân tộc. Sự giao kết đó là sự thấu hiểu, soi thấu nhau và gắn kết với nhau giữa người và người, không phân biệt sang, hèn, giai cấp và cả ngôn ngữ.

Cùng với chương trình Phát thanh tiếng Nhật, chương trình phát thanh tiếng Việt của Đài NHK, Nhật Bản cũng hơn 50 năm qua đồng hành với Việt Nam, động viên khích lệ nhân dân Việt Nam trong khói lửa chiến tranh, ủng hộ Việt Nam trong thời bình với quá trình hội nhập quốc tế.

Hiếm có những chương trình phát thanh nào có bề dày lịch sử như chương trình Tiếng Việt của NHK, và cũng hiếm có chương trình tiếng Nhật nào của Đài Tiếng nói Việt Nam hơn nửa thế kỷ qua đã bền bỉ đóng góp vào tăng cường mối quan hệ giữa hai nước như vậy. Đây là biểu hiện của mối thâm tình của nhân dân hai nước trong suốt chiều dài lịch sử quan hệ.

Kết nối từ trái tim tới trái tim

Đã có rất nhiều thế hệ người Nhật Bản gắn bó với Đài Tiếng nói Việt Nam. Ở mỗi thời kỳ họ đều âm thầm lắng nghe chương trình của Đài, theo dõi từng chặng đường phát triển của Việt Nam. Anh Tanaka phụ trách bản tin NHK online của Đài NHK là một người đã hơn 20 năm nghe Đài từ khi anh còn đang là học sinh phổ thông. Anh ấn tượng với những phát thanh viên của Đài.

Anh tâm sự rằng hơn 20 năm trước khi báo mạng ở Việt Nam chưa phát triển, chỉ có Đài Tiếng nói Việt Nam có chương trình phát thanh tiếng Nhật, nên đối với anh Đài là kênh thông tin duy nhất để anh có thể hiểu hơn con người Việt Nam, từ đó có thể có những bài phân tích, nhận định giá về quan hệ hai nước, giúp độc giả, thính giả hiểu nhau hơn, tin tưởng nhau hơn.

Năm 2011, Đài TNVN chính thức khai trương trang web tiếng Nhật, đáp ứng nhu cầu phát triển của quan hệ hai nước. Thông qua các kênh truyền thông của Đài TNVN, các bạn Nhật hiểu rõ hơn về đất nước con người Việt Nam, các doanh nghiệp Nhật Bản cũng mở rộng đầu tư tại Việt Nam, góp phần vào sự nghiệp phát triển của Việt Nam.

Ông Miwa Satoh, sống tại Tokyo, trong một bức thư gửi về Cơ quan thường trú Đài TNVN tại Nhật Bản tâm sự: “Tôi chưa có cơ hội đến thăm đất nước các bạn, nhưng qua chương trình tôi được hiểu hơn về văn hóa Việt Nam, về đời sống thường ngày của người dân Việt Nam. Tôi cảm nhận được sự yên bình và tươi đẹp trong đó. Các bạn có một nền văn hóa đáng tự hào, trong đó có nhiều điểm tương đồng với văn hóa đất nước chúng tôi. Có lẽ tôi muốn đến tận nơi đất nước các bạn. Chương trình tiếng Nhật thật sự là cầu nối giữa hai dân tộc, giữa nhân dân hai nước. Tôi hy vọng chúng ta sẽ hiểu nhau hơn”.

Nguyên Đại sứ Nhật Bản tại Việt Nam, ông Sakaba Mitsuo từng khẳng định: “Quan hệ hai nước chúng ta đang ở giai đoạn viên mãn nhất ở trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt ở các hoạt động giao lưu văn hóa thực sự phong phú. Nhật Bản coi trọng tăng cường các hoạt động giao lưu văn hóa đó. Bởi đó là những hoạt động làm cho nhân dân hai nước chúng ta thấu hiểu nhau hơn, gắn kết nhau hơn. Đó cũng là yếu tố thực sự làm giàu thêm bản sắc dân tộc của mỗi nước”.

Ông Oshima Koichi, Chủ tịch Hội hữu nghị Nhật-Việt tỉnh Fukuoka cho biết rằng, ông đã nghe Đài Tiếng nói Việt Nam nhiều năm nay. Thông tin của Đài nhanh nhạy, chính xác về đã giúp ông hiểu hơn về đất nước và con người Việt Nam hơn, từ đó có tư vấn chính xác đối với những người Nhật Bản yêu mến Việt Nam, đóng góp vào việc tăng cường giao lưu giữa nhân dân hai nước. 
Chủ tịch Hội hữu nghị Nhật-Việt tỉnh Fukuoka, ông Oshima Koichi trong lần trả lời PV Đài TNVN tại Tokyo, Nhật Bản

Còn ông Suzuki, một người nghe Đài Tiếng nói Việt Nam từ những chương trình đầu tiên bằng tiếng Anh lại rất ấn tượng với sự đổi mới về nội dung chương trình của Đài. Mặc dù nói năng rất khó nhọc do bị tai biến mạch máu não, nhưng ông Suzuki vẫn hàng ngày nghe Đài.

Dù chưa có dịp đến Việt Nam, nhưng khi nghe Đài Tiếng nói Việt Nam ông có cảm giác như đang được tận mắt chứng kiến những gì đang diễn ra ở Việt Nam. Đáp lại những tình cảm đặc biệt của thính giả, bạn đọc đối với Đài TNVN tháng 4/2012, Tổng giám đốc Đài Tiếng nói Việt Nam trong chuyến thăm Đài Phát thanh - Truyền hình NHK (Nhật Bản) đã thống nhất rằng: Hai Đài cần cụ thể hóa thỏa thuận hợp tác được ký năm 2004 nhằm làm sâu sắc thêm mối quan hệ giữa hai bên, đồng thời sẽ tăng cường mối quan hệ hợp tác trên nhiều lĩnh vực.

Cụ thể thông qua các chương trình của hai Đài, đặc biệt chương trình tiếng Nhật của Đài Tiếng nói Việt Nam và tiếng Việt của Đài NHK, cơ quan thường trú của Đài Tiếng nói Việt Nam tại Tokyo, Nhật Bản tích cực truyền bá thông tin, tăng cường hiểu biết lẫn nhau, góp phần tăng cường mối quan hệ hữu nghị, truyền thống giữa nhân dân 2 nước./.