LTS:Ralph Wetterhahn là một phi công Mỹ chuyên lái máy bay tiêm cường kích McDonnell F-4 Phantom trong Chiến tranh Việt Nam. Sau cuộc chiến này, ông có trở lại Việt Nam vào cuối thập niên 1990 để tìm kiếm thông tin về một phi công Mỹ khác mất tích trong chiến tranh, tên là John “Robbie” Robertson – ông này từng thuộc cùng phi đoàn với Wetterhahn. Trong chuyến thăm Việt Nam, ông đã có dịp gặp gỡ phi công Việt Nam Nguyễn Văn Bảy (người đã lập chiến công bắn hạ được 7 máy bay của đối phương) và đối chiếu thông tin về các trận không chiến giữa đôi bên. Sau đây là lược dịch phần ghi chép của phi công Wetterhahn (các tít do VOV.VN đặt):
***
(Kỳ 1)
Ngày 6/9/1966 Wetterhahn và Robbie cùng lái máy bay F-4C cất cánh từ căn cứ không quân Thái Lan Ubon trong chiến dịch Rolling Thunder (Sấm Rền) ném bom miền Bắc Việt Nam. Trong phi vụ lần này, Robbie bay trước và không bao giờ quay trở lại.
Một máy bay tiêm kích MiG-17 được trưng bày tại Bảo tàng Phòng không-Không quân ở Hà Nội. Ảnh: Trung Hiếu/VOV.VN. |
Cuộc chạm trán khiến phi công Mỹ Robbie mất tích
Chuông báo động vang lên ở sân bay Gia Lâm (Hà Nội) vào đầu giờ chiều. Ông Nguyễn Văn Bảy bay ở vị trí thứ 3 trong biên đội 4 máy bay do Hồ Văn Quỳ chỉ huy. Ông Quỳ đã lập công bắn hạ một phi cơ F-4 của đối phương. Còn vào lúc này, ông Bảy đã bắn rơi 1 chiếc F-4, một chiếc Vought F-8 Crusader (của hải quân Mỹ), và chiếc F-105 Thunderchief. Lưu Huy Chao bay ở vị trí số 2 yểm trợ cho máy bay chỉ huy. Ông Chao ngày đó cũng bắn hạ được 3 máy bay địch và về sau trở thành một phi công hạng ace (bắn rơi được từ 5 máy bay địch trở lên).
Nguyễn Văn Bảy là người đầu tiên phát hiện ra đường bay của Robbie. Khi ông Bảy xin phép được công kích, ông Quỳ bày tỏ nghi ngại máy bay MiG có tốc độ chậm hơn liệu có đuổi kịp F-4 hay không. Nhưng khi các chiếc phi cơ MiG đang chật vật cố thu hẹp khoảng cách thì ông Bảy phát hiện các máy bay Phantom mắc sai lầm. Ông phát hiện chúng bắt đầu chuyển hướng đi lên. Cơ hội đã đến.
Theo lời kể của Hubert Buchanan - phi công ngồi ở ghế sau của Robbie, họ luôn bay ở vị trí số 3.
Lần đó là phi vụ tác chiến thứ 17 của Buchanan và là một trong các đợt không kích lớn nhất mà ông tham gia.
Buchanan kể lại: “Chúng tôi khi ấy cố gắng tránh bị sóng radar Việt Nam phát hiện. Chúng tôi bay khá thấp, nhưng không thấp đến mức có thể dính hỏa lực từ mặt đất bắn lên và đợt không kích ồ ạt sắp diễn ra. Máy bay phủ kín lên vùng mục tiêu. Và rồi ở vị trí nào đó giữa Hải Phòng và Hà Nội, một trong các thành viên đội bay của chúng tôi la lên rằng có tiêm kích MiG ở vị trí 6h (tức phía sau đuôi máy bay – ND).
“Lúc đó, chúng tôi đã thả hết thùng nhiên liệu cùng đạn bom và bắt đầu quẹo trái leo lên. Các máy bay MiG bắt đầu cắt qua đường bay của chúng tôi và cũng leo lên”.
Tiếp cận thật gần và nã pháo
Phi cơ của ông Bảy lúc đó được trang bị 3 pháo. Ông kể: “Tôi lượn vào phía sau chiếc Phantom. Kính ngắm của chúng tôi khá kém. Nên tôi phải bay sát vào cự ly 100-150m tính từ máy bay đối phương và khai hỏa. Tôi tính toán, điều chỉnh thông qua theo dõi các đường đạn vạch đường”.
Buchanan nhớ đã nói với Robbie như thế này: “Anh ta đang bám sát đuôi chúng ta và có thể nổ súng bất cứ lúc nào!”.
Lúc đó, một loạt đạn cỡ bóng golf màu cam lóe lên phía trên vòm kính buồng lái của Buchanan. Robbie kéo mạnh rồi thả lỏng cú rẽ. Buchanan thấy chiếc MiG tiến sát một lần nữa. Ông nói, “Gay rồi, anh ta đã nắn chỉnh xong xuôi”.
Phương Tây viết về chiến thuật của các phi công “Ace” của Việt Nam
Ông Bảy gióng lại đường bay, và lại nhả đạn. Ông nhìn thấy một chiếc bánh văng ra từ bên dưới cánh của chiếc F-4 và bay vút qua vòm kính của mình. Nhưng với Buchanan mọi thứ bỗng đen ngòm.
Buchanan nói: “Đó có thể là do lực G quá nhiều khiến máu bị rút khỏi mắt của tôi, tôi không chắc lắm. Mũ của tôi nảy lung tung. Tôi không thực sự nhớ rõ việc bung dù của mình. Cứ như mộng mị vậy. Tôi mơ màng kéo cần gạt giữa 2 chân để nhảy dù. Tôi có lẽ nghe thấy những tiếng bùm bùm, như thể vòm kính bị thổi bay. Rồi tôi cảm nhận các luồng gió. Kế đó dù tôi bung ra”.
Sau đó khi tiếp đất ở một ngôi làng nhỏ, Buchanan bị bắt và tiếp tục làm tù binh ở Việt Nam đến năm 1973.
Còn lúc đó, ông Bảy thoát ly khỏi khu vực máy bay Phantom bốc cháy rồi bay vòng lại để quan sát mục tiêu đã trúng đạn và phát hiện có một chiếc dù bung ra.
Trận đấu không cân sức giữa “David và Goliath”
Trong số 16 phi công của Không quân Nhân dân Việt Nam đạt đẳng cấp Ace, chỉ có 3 người (gồm ông Bảy và ông Chao) là lái tiêm kích MiG-17, 13 người còn lại lái máy bay MiG-21 hiện đại hơn. MiG-21 được trang bị radar và tên lửa tầm nhiệt và được coi là ngang cơ với F-4 và F-8 về độ cơ động và khả năng bứt tốc. Trong khi đó, MiG-17 cổ lỗ của thập niên 1950 khó kiểm soát khi xoay quanh trục dọc và trục ngang ở tốc độ cao, lại không được trang bị cả radar lẫn tên lửa. MiG-17 chỉ được trang bị 1 pháo 37mm và 2 pháo 23mm. Kính ngắm của tiêm kích này cũng không có radar tính khoảng cách nên ông Bảy phải dựa vào đạn vạch đường để điều chỉnh đường ngắm. Ưu điểm của MiG-17 là khả năng quan sát tốt và tốc độ rẽ cực lớn nhưng máy bay này lại bị áp đảo về số lượng trước các phi cơ hiện đại hơn của Mỹ là Phantom, Crusader và Thunderchief.
Cuộc chiến trên không của Mỹ ở Việt Nam kéo dài từ năm 1965 đến 1973. Đối với một phi công MiG, bản thân việc sống sót trong gần 8 năm chiến tranh này đã là một kỳ tích, chưa nói đến chuyện bắn hạ hơn 5 máy bay đối phương để trở thành phi công ace.
Trận giao chiến đầu tiên của ông Bảy là vào ngày 6/10/1965. Ông bị một chiếc F-4 tấn công, chiếc này gần như chắc chắn là do phi công hải quân Mỹ Dan McIntyre lái. Tổ lái của chiếc F-4 đã phóng một tên lửa AIM-7D về phía MiG-17. Trong khi đó, ông Bảy nhớ một tên lửa nổ phía bên ngoài cánh bên trái của máy bay ông. “Tôi cảm nhận được sức nóng từ vụ nổ... Máy bay chúi xuống và bắt đầu rung”.
Nguyễn Văn Bảy lập tức ngoành máy bay về phía sân bay Nội Bài và cố gắng hạ cánh an toàn. Trên mặt đất, ông đếm được 82 lỗ thủng trên máy bay.
Ông Bảy nhớ lại: “Tôi cảm giác như mình là một võ sĩ quyền Anh hạng nhẹ cố gắng đấu với một võ sĩ hạng nặng. Chúng tôi bị áp đảo về số lượng, một chọi với 4 hoặc 5. Suy nghĩ của chúng tôi là phải cố gắng sống sót”.
Áp dụng lối đánh hiểm để khắc chế đối phương
“Tiêm kích Mỹ bay nhanh hơn chúng tôi”, ông Bảy nói. “Chúng tôi phải buộc chúng thực hiện động tác rẽ. Khi rẽ như vậy, tốc độ không còn là lợi thế của họ nữa. Chúng tôi có thể thay đổi tâm của vòng tròn và bay tắt qua đường kính để đuổi kịp đối phương. Chúng tôi chỉ cần sử dụng góc phù hợp để cắt qua đường bay vòng của họ và khi ấy pháo của chúng tôi phát huy hiệu quả”.
Pháo của ông Bảy đã phát huy hiệu quả lần đầu tiên vào cuối tháng 4/1966. Khi mạng radar phát hiện máy bay Mỹ đang tiến đến các khu vực Bac Son và Dinh Ca, một sĩ quan chỉ huy đã lệnh cho 4 phi cơ MiG-17 cất cánh để nghênh chiến, các phi cơ này do các phi công Bảy, Chao, Trần Triêm và Hồ Văn Quỳ lái.
Ngay sau khi cất cánh, ông Bảy phát hiện 8 chiếc F-4. Một chiếc F-4 bay tản rộng ra khi đội hình này thực hiện rẽ. Nguyễn Văn Bảy cắt qua đường bay của chiếc F-4 và bay sát vào cự ly bắn. Ông Bảy nhớ lại: “Khi toàn thân chiếc F-4 đó đã choán chiếm kính chắn gió của tôi, tôi khai hỏa, và chiếc F-4 rụng xuống”./.
>> Xem Kỳ 2: Phi công Nguyễn Văn Bảy giữa vòng vây của các máy bay quân sự Mỹ