Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình tại Văn bản số 9973/VPCP-V.I ngày 19/9/2017 của Văn phòng Chính phủ; Tổng Thanh tra Chính phủ ban hành Quyết định số 2906/QĐ-TTCP ngày 20/11/2017 về việc thanh tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về quản lý và sử dụng đất đai, bảo vệ và phát triển rừng, bảo vệ môi trường, xây dựng đối với các dự án đầu tư trên Bán đảo Sơn Trà, TP Đà Nẵng.
Bán đảo Sơn Trà. |
Ngày 11/10/2019, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ có ý kiến chỉ đạo đồng ý đối với Kết luận thanh tra số 269/KL-TTCP ngày 16/9/2019.
Căn cứ Điều 39 Luật Thanh tra năm 2010 về công khai kết luận thanh tra; Căn cứ Quyết định số 305/QĐ-TTCP ngày 18/10/2019 của Tổng Thanh tra Chính phủ về việc giải mật một phần nội dung của Kết luận thanh tra số 269/KL-TTCP ngày 16/9/2019, Tổng Thanh tra Chính phủ thông báo như sau:
A. NỘI DUNG THANH TRA
Thanh tra việc thanh tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về quản lý và sử dụng đất đai, bảo vệ và phát triển rừng, bảo vệ môi trường, xây dựng đối với các dự án đầu tư xây dựng trên Bán đảo Sơn Trà, TP Đà Nẵng.
B. KẾT QUẢ THANH TRA
I. Khái quát chung về bán đảo Sơn Trà
- Thành phố Đà Nẵng thuộc một trong ba địa bàn trọng điểm du lịch của vùng du lịch Duyên hải Nam Trung bộ, là trung tâm kinh tế, văn hóa, khoa học và công nghệ của miền Trung; đầu mối giao thông quan trọng về đường bộ, đường sắt, đường biển, đường hàng không và cũng là cửa ngõ chính ra Biển Đông của các tỉnh miền Trung - Tây Nguyên. Bán đảo Sơn Trà thuộc phường Thọ Quang, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng, có diện tích tự nhiên khoảng 4.439 ha, độ cao trung bình 350m, đỉnh cao nhất gần 700m so với mực nước biển, là khu vực tổng hòa của hệ sinh thái rừng tự nhiên gắn liền biển và đô thị, có các yếu tố về bảo tồn tự nhiên, đa dạng sinh học và cảnh quan môi trường với hệ sinh thái đa dạng, phong phú trong đó có những loài quý hiếm thuộc Sách Đỏ như Voọc chà vá chân nâu… Bán đảo Sơn Trà có tầm quan trọng đặc biệt về quốc phòng, an ninh; với những lợi thế về vị trí địa lý, tiềm năng phát triển du lịch, Bán đảo Sơn Trà đã được quy hoạch là Khu du lịch quốc gia.
- Theo quy định của pháp luật và phê duyệt của cấp có thẩm quyền, việc phân loại rừng nói chung và tại Bán đảo Sơn Trà nói riêng ở các thời kỳ khác nhau với tên gọi khác nhau: trước năm 1991, trong các loại rừng có rừng cấm (tại Điều 5 Pháp lệnh số 147/LCT ngày 11/9/1972 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định việc bảo vệ rừng; Quyết định số 41-TTg ngày 24/01/1977 của Thủ tướng Chính phủ về việc quy định các khu rừng cấm); từ năm 1991 đến nay, trong các loại rừng có loại rừng đặc dụng (theo Luật Bảo vệ và phát triển rừng số 58-LCT/HDDNN8 ngày 12/8/1991 và Luật Bảo vệ và phát triển rừng số 29/2004/QH11 ngày 03/12/2004; Luật Lâm nghiệp số 16/2017/QH14 ngày 15/11/2017). Tại Quyết định số 465/QĐ-TTg ngày 17/6/2002 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt điều chỉnh quy hoạch chung thành phố Đà Nẵng đến năm 2020, về nội dung xây dựng các hệ thống rừng đặc dụng, trong đó có Khu bảo tồn thiên nhiên Sơn Trà.
- Thực hiện Nghị quyết số 33/NQ-TW ngày 16/10/2003 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vàNghị quyết số 11/2006/NQ-CP ngày 26/5/2006 của Chính phủ về việc xét duyệt điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010 của thành phố Đà Nẵng, Quyết định số 201/QĐ-TTg ngày 22/01/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, từ năm 2003 đến năm 2013, thành phố Đà Nẵng đã phê duyệt, chấp thuận giao Chủ đầu tư 18 dự án phát triển du lịch, nghỉ dưỡng trên Bán đảo Sơn Trà, với tổng diện tích khoảng 1.222,5 ha, quy mô lưu trú 1.920 biệt thự, 24 Bungalow và 306 buồng khách sạn (quy đổi tương đương khoảng 5.600 buồng phòng khách sạn).
- Ngày 09/11/2016, Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 2163/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển Khu du lịch quốc gia Sơn Trà, TP Đà Nẵng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 với diện tích 1.056 ha; như vậy, trước đó, UBND TP Đà Nẵng đã chấp thuận, phê duyệt giao Chủ đầu tư dự án với diện tích đất khoảng 1.222,5 ha, vượt so với quy hoạch được duyệt 166,5 ha.
- Trong 18 dự án, có 04 dự án UBND TP Đà Nẵng quyết định giao đất, cho thuê đất trước thời điểm Luật Đất đai năm 2003 có hiệu lực (Khu du lịch sinh thái biển Tiên Sa; Khu du lịch Bãi Bụt; Khu nhà nghỉ và du lịch sinh thái Bãi Trẹm; Tổ hợp Khu du lịch - dịch vụ cao cấp Sơn Trà); 08 dự án[1] sau khi Luật Đất đai năm 2003 có hiệu lực (trong đó 01 dự án Khu du lịch sinh thái biển, biệt thự cao cấp Ghềnh Bàn - Bãi Đa sau khi Luật Đất đai năm 2013 có hiệu lực); 06 dự án[2] chưa có quyết định giao đất, cho thuê đất, trong đó 02 dự án đã xác định, thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất (Khu du lịch sinh thái biển kết hợp nuôi trồng hải sản; Khu du lịch Biển Đông mở rộng).
Qua thanh tra thấy trong quản lý, sử dụng đất đai, bảo vệ và phát triển rừng, bảo vệ môi trường, đầu tư xây dựng đối với các dự án đầu tư tại Bán đảo Sơn Trà đã có những khuyết điểm, vi phạm sau:
II. NHỮNG KHUYẾT ĐIỂM VI PHẠM
1. Đối với UBND TP Đà Nẵng:
- Bán đảo Sơn Trà là khu vực tổng hòa của hệ sinh thái rừng tự nhiên gắn liền biển và đô thị, có các yếu tố về cảnh quan môi trường, bảo tồn tự nhiên, với hệ sinh thái đa dạng, phong phú trong đó có loài quý hiếm thuộc Sách Đỏ, như Voọc chà vá chân nâu…, có lợi thế về vị trí địa lý, tiềm năng phát triển du lịch và có tầm quan trọng đặc biệt về quốc phòng, an ninh; đã được quy hoạch là Khu du lịch quốc gia. Tuy nhiên, đến thời điểm thanh tra, UBND TP Đà Nẵng chưa phê duyệt quy hoạch bảo tồn và phát triển bền vững Khu bảo tồn thiên nhiên Sơn Trà; các cơ quan, đơn vị chức năng chưa thực hiện điều tra, đánh giá tổng thể về đa dạng sinh học, chưa lập báo cáo hiện trạng đa dạng sinh học trên Bán đảo Sơn Trà theo quy định tại Khoản 1 Điều 33 Luật Đa dạng sinh học năm 2008;chưa thực hiện báo cáo tình trạng loài thuộc danh mục nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ theo quy định tại điểm d Khoản 2 Điều 43 Luật Đa dạng sinh học năm 2008… gây khó khăn cho công tác quản lý, bảo tồn và phát triển đa dạng sinh học trên Bán đảo Sơn Trà.
- Theo quy định tại Khoản 2 Điều 4, Khoản 2 Điều 49 Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 thì rừng đặc dụng có thể được sử dụng để phục vụ nghỉ ngơi, du lịch…, nhưng phải tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng tại Khoản 2 Điều 49 Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 (Nguyên tắc phát triển, sử dụng rừng đặc dụng: Vườn quốc gia, Khu bảo tồn thiên nhiên phải được xác định rõ phân khu bảo vệ nghiêm ngặt, phân khu phục hồi sinh thái, phân khu dịch vụ - hành chính và vùng đệm) và các quy định pháp luật có liên quan. Tuy nhiên, UBND TP Đà Nẵng, các sở, ngành chức năng chưa thực hiện công tác xác định rõ các phân khu chức năng (phân khu bảo vệ nghiêm ngặt, phân khu phục hồi sinh thái, phân khu dịch vụ - hành chính và vùng đệm) làm cơ sở cho việc quản lý, bảo vệ và phát triển rừng trên Bán đảo Sơn Trà là chưa đúng quy định tại Khoản 3 Điều 4 Nghị định số 23/2006/NĐ-CP và Điều 14, Khoản 2 Điều 15, Khoản 1 Điều 24 Quyết định số 186/2006/QĐ-TTg ngày 14/8/2006 của Thủ tướng Chính phủ về Quy chế quản lý Rừng; tại Quyết định số 6758/QĐ-UBND ngày 20/8/2008, UBND TP Đà Nẵng phê duyệt quy hoạch rừng đặc dụng bán đảo Sơn Trà với diện tích là 2.591,1 ha, so với diện tích UBND TP trình và được Bộ NN và PTNT thẩm định là 3.871 ha, thì đã cắt giảm 1.279,9 ha để đưa diện tích rừng này vào các dự án tại Bán đảo Sơn Trà, vi phạm quy định tại điểm c Khoản 2 Điều 12 Nghị định số 23/2006/NĐ-CP ngày 03/3/2006 của Chính phủ; tuy nhiên, thực tế các dự án đều chưa triển khai nên diện tích rừng đặc dụng trên Bán đảo Sơn Trà không có biến động nhiều.
Theo kết quả tổng điều tra, kiểm kê rừng thành phố Đà Nẵng năm 2016, đã được Bộ NN và PTNT thống nhất phê duyệt, công bố, thì tổng diện tích rừng tại Bán đảo Sơn Trà năm 2016 là 3.729 ha.
- Trong tổng số 18 dự án trên Bán đảo Sơn Trà được UBND TP Đà Nẵng phê duyệt, chấp thuận:
+ 09 dự án có một phần diện tích là rừng tự nhiên với tổng diện tích là 163,32 ha nhưng chưa xác định trong phương án giao quản lý, bảo vệ rừng;
+ 02 dự án UBND TP Đà Nẵng có văn bản lấy ý kiến của Bộ Quốc phòng, Bộ Tư lệnh Quân khu 5 nhưng chỉ có 01 dự án Bộ Quốc phòng có ý kiến thống nhất, 01 dự án chưa có văn bản trả lời, nhưng UBND TP Đà Nẵng vẫn giao đất, cho thuê đất thực hiện dự án; còn lại 16 dự án, UBND TP Đà Nẵng chưa có văn bản lấy ý kiến Bộ Quốc phòng; sau đó UBND thành phố Đà Nẵng không tổ chức rà soát để xử lý vi phạm. Qua rà soát, báo cáo của UBND TP Đà Nẵng, bước đầu xác định có 07 dự án được giao đất, cho thuê đất vi phạm về an ninh quốc phòng.
- Giao đất, cho thuê đất đối với 03 dự án (Khu du lịch bãi Bụt; Khu du lịch bãi Trẹm; Khu du lịch sinh thái kết hợp nuôi trồng thủy sản) khi không có hồ sơ dự án đầu tư, vi phạm quy định tại Khoản 7 Điều 1 Nghị định số 12/2000/NĐ-CP ngày 05/5/2000 của Chính phủ; không tổ chức thẩm tra Báo cáo NCKT đối các dự án thuộc nhóm A (khu du lịch Bãi Bụt; tổ hợp khu du lịch – dịch vụ cao cấp Sơn Trà) là vi phạm quy định tại Khoản 6 Điều 1 Nghị định số 07/2003/NĐ-CP ngày 30/01/2003 của Chính phủ.
- Không thẩm định về nhu cầu sử dụng đất đối với 04 dự án (Khu du lịch, dịch vụ ven biển và dịch vụ sinh thái cao cấp Hồ Xanh; Khu du lịch nghỉ dưỡng và biệt thự sinh thái cao cấp Ghềnh Đa – Mũi Nghê; Khu du lịch sinh thái biển kết hợp nuôi trồng thủy hải sản; Khu biệt thự Suối Đá) hoặc có thẩm định nhưng không đầy đủ trình tự, thủ tục, vi phạm quy định tại điểm b Khoản 1 Điều 30 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ và Thông tư số 30/2014/TT-BTNMT ngày 02/6/2014 của Bộ Tài nguyên và Môi trường (Khu du lịch sinh thái biển Bãi Bắc và Khu du lịch sinh thái biển, biệt thự cao cấp Ghềnh Bàn – Bãi Đa).
- Giao cho các đơn vị không có chức năng, thẩm quyền (Công ty Quản lý và Khai thác đất thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường, Ban Quản lý dự án Sơn Trà-Điện Ngọc) ký hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất với Chủ đầu tư một số dự án, vi phạm quy định tại Khoản 4 Điều 5 Luật Đất đai năm 2003.
- Giao đất cho cá nhân (Chủ đầu tư) tại 03 dự án (Khu du lịch sinh thái Bãi Trẹm; Khu du lịch biển Đông mở rộng; Khu du lịch Bãi Rạng) là không đúng đối tượng, không đúng thẩm quyền, vi phạm quy định tại Điều 34 Luật Đất đai năm 2003 và Khoản 1 Điều 8 Nghị định số 04/2000/NĐ-CP của Chính phủ. Đến thời điểm thanh tra, UBND TP Đà Nẵng đã thu hồi dự án Khu du lịch Bãi Rạng, giao Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố quản lý.
- Ban hành Quyết định số 9154/QĐ-UBND ngày 27/12/2006 (áp dụng cho Công ty Quản lý và Khai thác đất Đà Nẵng), trong đó quy định thời gian thông báo công khai nội dung phiên đấu giá chưa đúng quy định tại Khoản 1, 2 Điều 8 Quyết định số 216/2005/QĐ-TTg ngày 31/8/2005 của Thủ tướng Chính phủ. Công ty Quản lý và Khai thác đất Đà Nẵng đã thông báo đấu giá trước 15 ngày; nội dung thông báo đấu giá thiếu thông tin về quy hoạch sử dụng đất chi tiết, mục đích sử dụng đất, thời hạn sử dụng đất...; đưa ra đấu giá đất khi khu đất chưa được phê duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết, chưa đền bù giải phóng mặt bằng, không có phương án đấu giá được cấp có thẩm quyền phê duyệt là chưa đúng quy định tại Điều 5 Quyết định số 216/2005/QĐ-TTg ngày 31/8/2005 của Thủ tướng Chính phủ về điều kiện các thửa đất được tổ chức đấu giá.
- Cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các Chủ đầu tư để thực hiện 05 dự án trên Bán đảo Sơn Trà với thời hạn sử dụng đất lâu dài, vi phạm quy định tại Khoản 3 Điều 67 Luật Đất đai năm 2003.
- UBND TP Đà Nẵng phê duyệt quy hoạch chi tiết 03 dự án chưa phù hợp với diện tích quy hoạch sử dụng đất được Chính phủ phê duyệt, vi phạm quy định tại Khoản 1 Điều 13 Luật Xây dựng năm 2003; phê duyệt điều chỉnh quy hoạch chi tiết xây dựng 02 dự án không thuộc các trường hợp được điều chỉnh, vi phạm quy định tại Khoản 1 Điều 26 Luật Xây dựng năm 2003.
- Chưa phê duyệt Báo cáo đánh giá tác động môi trường bổ sung, hoặc phê duyệt sau khi Chủ đầu tư đã khởi công xây dựng là chưa đúng quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 14 Nghị định số 18/2015/NĐ-CP ngày 14/2/2015 của Chính phủ; một số Chủ đầu tư có đề nghị việc xả nước thải vào nguồn nước nhưng chưa được UBND TP Đà Nẵng giải quyết.
- Cấp Giấy chứng nhận đầu tư khi Chủ đầu tư chưa lập Báo cáo đánh giá tác động môi trường bổ sung, vi phạm quy định tại Khoản 4 Điều 22 Luật Bảo vệ môi trường năm 2005; cho Chủ đầu tư hưởng ưu đãi miễn tiền thuê đất, tiền thuế sử dụng đất từ năm 2004-2015 không đúng đối tượng, vi phạm quy định tại Điều 15 Luật Khuyến khích đầu tư 1998, Điều 16 Luật Khuyến khích đầu tư trong nước năm 1998 (đến năm 2015 các ưu đãi trên đã được hủy bỏ); thực hiện chưa đầy đủ thủ tục thẩm tra để cấp Giấy chứng nhận đầu tư đối với dự án có tổng vốn đầu tư trên 300 tỷ đồng và thuộc lĩnh vực kinh doanh có điều kiện, vi phạm quy định tại Khoản 1 Điều 47 Luật Đầu tư số 59/2005/QH11 ngày 29/11/2005.
- Thiếu kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm tại một số dự án đã có quyết định giao đất và nhận bàn giao mặt bằng nhưng chưa triển khai xây dựng, không có văn bản xin gia hạn; chưa xử lý, giải quyết việc xin gia hạn thời gian thực hiện dự án của một số Chủ đầu tư, là chưa đúng quy định tại điểm i Khoản 1 Điều 64 Luật Đất đai năm 2013 và Điều 46 Luật Đầu tư năm 2014.
- Không ban hành giá đất tại Bán đảo Sơn Trà dẫn đến việc xác định tiền thu sử dụng đất, tiền thuê đất gặp nhiều khó khăn; chưa thực hiện đầy đủ quy trình theo quy định về xác định giá đất; không lấy ý kiến hoặc không xem xét ý kiến của các sở ban, ngành mà chỉ căn cứ ý kiến của Chủ tịch và các Phó chủ tịch thành phố tại các cuộc họp; xác định sai thời điểm tính giá đất để thu tiền sử dụng đất; cho hưởng ưu đãi, giảm 10% tiền sử dụng đất... tại một số dự án không đúng quy định; xác định, thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất khi chưa có quyết định giao đất, cho thuê đất; không tính, thu tiền phạt chậm nộp tiền sử dụng đất... là không đúng quy định.
- Xác định tiền chuyển quyền sử dụng đất Dự án Khu du lịch sinh thái biển, biệt thự cao cấp Ghềnh Bàn - Bãi Đa, diện tích đất thấp hơn so quy hoạch chi tiết xây dựng TL 1/500 là 13.679 m2.
- Giao đất, cho thuê đất Lô L09 thuộc dự án Khu biệt thự Suối Đá không thông qua đấu giá quyền sử dụng đất theo quy định tại Điều 58 Luật Đất đai năm 2003, Điều 61 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004; điều chỉnh quy hoạch chi tiết xây dựng Dự án Khu biệt thự Suối Đá chưa đúng quy định, nếu tính theo giá đất giao có thu tiền sử dụng đất là 2.500.000 đồng/m2 (theo Quyết định số 3351/QĐ-UBND ngày 29/5/2006), làm giảm tiền sử dụng đất phải nộp NSNN là 11.272,5 triệu đồng.
2. Đối với các Sở, Ban ngành chức năng TP Đà Nẵng
- Các Sở, Ban ngành chức năng chưa thực hiện xác định rõ ranh giới các phân khu chức năng rừng đặc dụng (phân khu bảo vệ nghiêm ngặt, phân khu phục hồi sinh thái, phân khu dịch vụ - hành chính và vùng đệm) làm cơ sở cho việc quản lý, bảo vệ và phát triển rừng trên Bán đảo Sơn Trà, là chưa đúng quy định tại Khoản 3 Điều 4 Nghị định số 23/2006/NĐ-CP của Chính phủ; Điều 14, Khoản 2 Điều 15 và Khoản 1 Điều 24 Quyết định số 186/2006/QĐ-TTg ngày 14/8/2006 của Thủ tướng Chính phủ về Quy chế quản lý rừng.
- Các cơ quan, đơn vị chức năng chưa thực hiện điều tra, đánh giá tổng thể về đa dạng sinh học, chưa lập báo cáo hiện trạng đa dạng sinh học trên Bán đảo Sơn Trà theo quy định tại Khoản 1 Điều 33 Luật Đa dạng sinh học năm 2008;chưa thực hiện báo cáo tình trạng loài thuộc danh mục nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ theo quy định tại điểm d Khoản 2 Điều 43 Luật Đa dạng sinh học năm 2008…, gây khó khăn trong công tác quản lý, bảo tồn và phát triển đa dạng sinh học trên Bán đảo Sơn Trà.
- Không thẩm định hoặc thẩm định nhưng không đầy đủ về nhu cầu sử dụng đất tại một số dự án, không đúng quy định tại điểm b Khoản 1 Điều 30 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ và Thông tư số 30/2014/TT-BTNMT ngày 02/6/2014 của Bộ Tài nguyên và Môi trường.
- Công ty Quản lý và Khai thác đất, Ban Quản lý dự án Sơn Trà - Điện Ngọc được giao và đã ký Hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất với một số Chủ đầu tư dự án không đúng quy định tại Khoản 4 Điều 5 Luật Đất đai năm 2003.
- Sở Xây dựng TP Đà Nẵng cấp phép xây dựng không căn cứ vào Quyết định phê duyệt tổng mặt bằng quy hoạch chi tiết tỷ lệ 1/500 (Dự án Khu biệt thự Suối Đá); thiếu kiểm tra, giám sát theo thẩm quyền về đầu tư xây dựng tại các dự án...
3. Đối với UBND quận Sơn Trà
- Thiếu kiểm tra, giám sát, xử lý theo thẩm quyền đối với vi phạm trong quản lý, sử dụng đất đai, đầu tư xây dựng...
- UBND quận Sơn Trà ban hành Quyết định số 1340/QĐ-XPVPHC ngày 20/3/2017 xử phạt hành chính đối với Chủ đầu tư Dự án Khu du lịch sinh thái biển Tiên Sa chưa đủ căn cứ, cơ sở; chưa đúng với điểm e Khoản 2 Điều 89 Luật Xây dựng năm 2014.
4. Đối với các Chủ đầu tư dự án
- Không có hồ sơ đề nghị trình các cơ quan chức năng để chấp thuận địa điểm, giao đất, cho thuê đất theo quy định tại Khoản 7 Điều 1 Nghị định số 12/2000/NĐ-CP ngày 05/5/2000 sửa đổi Điều 13 Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng ban hành kèm theo Nghị định số 52/1999/NĐ-CP ngày 08/7/1999 của Chính phủ (Dự án Khu du lịch Bãi Bụt; Dự án Khu du lịch Bãi Trẹm; Dự án Khu du lịch sinh thái kết hợp nuôi trồng thủy hải sản).
- Khởi công xây dựng khi chưa có Giấy phép xây dựng là chưa đúng quy định tại Khoản 1 Điều 62 Luật Xây dựng năm 2003 (Dự án Khu du lịch Bãi Trẹm; một số hạng mục Dự án Khu du lịch Bãi Bụt; hạng mục hạ tầng khu A Dự án Tổ hợp Khu du lịch - dịch vụ cao cấp Sơn Trà; Khu nhà nghỉ và du lịch sinh thái Bãi Trẹm).
- Không lập Báo cáo đánh giá tác động môi trường (Dự án Khu nhà nghỉ và du lịch sinh thái Bãi Trẹm; Dự án Khu biệt thự Suối Đá; Dự án Khu du lịch sinh thái kết hợp nuôi trồng thủy hải sản); không lập, trình các cơ quan chức năng Báo cáo đánh giá tác động môi trường bổ sung là chưa đúng quy định tại Khoản 1 Điều 13 Nghị định số 80/2006/NĐ-CP ngày 09/8/2006, Khoản 1 Điều 20 Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 (Dự án Khu du lịch Bãi Bụt; Dự án Khu du lịch Bãi Trẹm; Dự án Khu du lịch sinh thái biển, biệt thự cao cấp Ghềnh Bàn - Bãi Đa; Dự án Khu du lịch nghỉ dưỡng sinh thái cao cấp Tây Nam Suối Đá).
- Khởi công xây dựng khi chưa được các cơ quan phê duyệt Báo cáo đánh giá tác động môi trường; chưa được cấp phép để xả nước thải vào nguồn nước theo quy định tại Điều 18 Luật Bảo vệ môi trường số 29-L/CTN ngày 27/12/1993 và Khoản 1 Điều 18 Luật Tài nguyên nước năm 1998 (Dự án Tổ hợp Khu du lịch - dịch vụ cao cấp Sơn Trà).
- Không làm thủ tục đăng ký đầu tư trước khi thực hiện dự án (Dự án Khu du lịch sinh thái kết hợp nuôi trồng thủy hải sản; Dự án Khu du lịch Biển Đông mở rộng).
- Chưa có văn bản xin gia hạn thời gian thực hiện dự án khi dự án chậm tiến độ theo quy định tại điểm i Khoản 1 Điều 64 Luật Đất đai năm 2013, Điều 46 Luật Đầu tư năm 2014.
- Chưa nộp tiền Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng; khoản tiền 10% tiền sử dụng đất được giảm, ưu đãi đầu tư không đúng quy định; tiền chậm nộp tiền sử dụng đất; tiền sử dụng đất chuyển từ đất thuê sang đất giao quyền sử dụng...
- Dự án Khu du lịch sinh thái biển, biệt thự cao cấp Ghềnh Bàn - Bãi Đa, Chủ đầu tư nhận bàn giao mặt bằng nhưng chưa triển khai xây dựng, không có văn bản xin gia hạn, vi phạm quy định tại điểm i Khoản 1 Điều 64 Luật Đất đai năm 2013 và Điều 46 Luật Đầu tư năm 2014; góp vốn bằng 33 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, có biểu hiện chuyển nhượng dự án nhưng không thấy kê khai, nộp các khoản nghĩa vụ có liên quan vào Ngân sách nhà nước.
5. Đối với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Sử dụng số liệu của UBND TP Đà Nẵng tại Quyết định số 6758/QĐ-UBND ngày 20/8/2008, Nghị quyết số 105/NQ-CP ngày 12/9/2013 của Chính phủ về Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng đất kỳ đầu (2011-2015) của thành phố Đà Nẵng, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1976/QĐ-TTg ngày 30/10/2014 phê duyệt quy hoạch hệ thống rừng đặc dụng cả nước đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, trong đó diện tích rừng tại Bán đảo Sơn Trà là 2.591,1 ha, không đúng với hiện trạng và diện tích rừng đã được Bộ thẩm định trước đó (3.871 ha), chưa thực hiện đúng trách nhiệm quản lý nhà nước được giao.
III. NGUYÊN NHÂN VÀ TRÁCH NHIỆM
1. Nguyên nhân
1.1. Nguyên nhân khách quan
Những vi phạm, tồn tại nêu trên có nhiều nguyên nhân, trong đó chủ yếu là Bán đảo Sơn Trà có hệ sinh thái đa dạng, phong phú, có tầm quan trọng về an ninh quốc phòng, có vị trí tương đối độc lập, địa hình đồi núi dốc, hiện chỉ có một đường duy nhất chạy đến chân bán đảo, khó khăn trong công tác quản lý đất đai, rừng, đa dạng sinh học, đầu tư xây dựng... Các dự án được triển khai từ những năm 2003, thời kỳ này các quy định của pháp luật về đất đai, xây dựng, đầu tư vẫn còn có những nội dung bất cập, chưa đồng bộ.
1.2. Nguyên nhân chủ quan
- UBND TP Đà Nẵng, Chủ tịch, các Phó chủ tịch thành phố, Giám đốc các Sở chức năng, Chủ tịch UBND quận Sơn Trà qua các thời kỳ chưa thực hiện đúng, đầy đủ trách nhiệm được giao, chưa chấp hành các quy định về quản lý đất đai, môi trường, bảo vệ và phát triển rừng, an ninh quốc phòng, đầu tư, xây dựng...; thiếu kiểm tra, giám sát, xử lý những tồn tại, vi phạm.
- Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn chưa thực hiện đầy đủ trách nhiệm quản lý nhà nước được giao.
- Chủ đầu tư một số dự án vi phạm quy định của pháp luật về đất đai, đầu tư, xây dựng, môi trường...
2. Trách nhiệm:
Trách nhiệm đối với các khuyết điểm, vi phạm trên thuộc về:
- Chủ tịch, các Phó chủ tịch UBND TP Đà Nẵng, Giám đốc các Sở, lãnh đạo các phòng ban, thủ trưởng các đơn vị trực thuộc và các cán bộ có liên quan qua các thời kỳ có các khuyết điểm, vi phạm nêu tại Kết luận thanh tra.
- Lãnh đạo Bộ, thủ trưởng, cán bộ các cục, vụ, đơn vị thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn chịu trách nhiệm về khuyết điểm, vi phạm thuộc lĩnh vực quản lý nêu tại Kết luận thanh tra.
- Chủ đầu tư các dự án, tổ chức, cá nhân có liên quan chịu trách nhiệm về các vi phạm nêu tại Kết luận thanh tra.
C. KIẾN NGHỊ XỬ LÝ
Tổng Thanh tra Chính phủ kiến nghị Thủ tướng Chính phủ:
1. Giao UBND TP Đà Nẵng:
- Theo thẩm quyền, tổ chức kiểm điểm, xử lý trách nhiệm theo quy định đối với tổ chức, cá nhân có khuyết điểm, vi phạm nêu tại Kết luận thanh tra.
- Chủ trì, phối hợp với các bộ (Tài nguyên và Môi trường; Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Quốc phòng…) kiểm tra, rà soát các dự án đầu tư tại Bán đảo Sơn Trà, đảm bảo phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, quy hoạch rừng, an ninh quốc phòng, du lịch... đã được phê duyệt; kiên quyết xử lý, thu hồi đối với những dự án, diện tích đất không đủ điều kiện, có vi phạm pháp luật về đất đai, đầu tư, xây dựng, môi trường, quản lý bảo vệ rừng, đa dạng sinh học, an ninh quốc phòng..., đặc biệt là diện tích 364,81 ha đất của 04 dự án và một phần diện tích của 10 dự án có vi phạm phải được rà soát để xử lý; đối với 282,15 ha mặt nước biển của 04 dự án (Khu du lịch sinh thái biển Bãi Bắc: 225,69 ha; Khu Du lịch sinh thái biển Tiên Sa mở rộng: 31,99 ha; Khu du lịch sinh thái biển Tiên Sa: 3,65 ha; Tổ hợp Khu du lịch - Dịch vụ cao cấp Sơn Trà: 20,82 ha), UBND thành phố Đà Nẵng căn cứ tình hình thực tế, yêu cầu về bảo vệ rừng, an ninh quốc phòng để xử lý theo thẩm quyền, đúng pháp luật. Trong quá trình triển khai, nếu vượt thẩm quyền, phải báo cáo, xin ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.
- Chủ trì, phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Tài chính rà soát, xác định giá đất; tính và thu nộp đầy đủ vào ngân sách Nhà nước các khoản nghĩa vụ tài chính của các dự án, đảm bảo theo đúng quy định của pháp luật, có tính đến yếu tố đặc thù tại Bán đảo Sơn Trà; đối với các dự án Chủ đầu tư chưa nộp tiền sử dụng đất, tiền thuê đất thì xem xét thực hiện đấu giá theo quy định của pháp luật.
- Chỉ đạo thu hồi khoản tiền Chủ đầu tư chưa nộp về Qũy Bảo vệ và Phát triển rừng thành phố Đà Nẵng, tiền chậm nộp tiền sử dụng đất, khoản tiền giảm 10% giá trị đầu tư cơ sở hạ tầng trừ chi phí giải phóng mặt bằng, giảm 10% tiền sử dụng đất không đúng quy định.
- Phối hợp với Bộ Quốc phòng kiểm tra, rà soát về yếu tố an ninh quốc phòng đối với các dự án đầu tư trên Bán đảo Sơn Trà để xử lý theo quy định của pháp luật.
- Rà soát, hủy bỏ các văn bản do UBND TP Đà Nẵng ban hành không đúng quy định của pháp luật (việc giảm, hỗ trợ tiền sử dụng đất, xác định giá đất, giao đất, phê duyệt quy hoạch...); rà soát, điều chỉnh Quyết định số 6758/QĐ-UBND ngày 20/8/2008 và Quyết định số 5924/QĐ-UBND ngày 27/8/2013 phù hợp với diện tích rừng đặc dụng đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt; kiểm tra, rà soát việc chấp hành quy định pháp luật của các Chủ đầu tư để xử lý theo thẩm quyền đối với các vi phạm, đảm bảo theo đúng quy định pháp luật về đầu tư, xây dựng,
đất đai, môi trường, an ninh quốc phòng, bảo vệ và phát triển rừng, đa dạng sinh học..., chỉ đạo xử lý việc xử phạt hành chính đối với Chủ đầu tư Dự án Khu du lịch sinh thái biển Tiên Sa đảm bảo theo đúng quy định của pháp luật; khẩn trương phê duyệt quy hoạch bảo tồn và phát triển bền vững Khu bảo tồn thiên nhiên Sơn Trà theo quy định.
- Chỉ đạo rà soát, điều chỉnh thời hạn sử dụng đất trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho các Chủ đầu tư theo đúng quy định pháp luật.
- Phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, điều chỉnh diện tích rừng đặc dụng trên Bán đảo Sơn Trà tại Quyết định số 1976/QĐ-TTg ngày 30/10/2014 của Thủ tướng Chính phủ đảm bảo phù hợp, thống nhất với quy hoạch tổng thể bảo tồn đa dạng sinh học, quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai...
- Thông báo đến các Chủ đầu tư dự án trên Bán đảo Sơn Trà để thực hiện Kết luận thanh tra theo quy định của pháp luật.
2. Giao Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn:
- Chỉ đạo, kiểm điểm xử lý trách nhiệm đối với tổ chức, cá nhân thuộc Bộ có khuyết điểm, vi phạm nêu tại Kết luận thanh tra.
- Phối hợp với UBND TP Đà Nẵng kiểm tra, rà soát, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét điều chỉnh diện tích rừng đặc dụng đối với Khu bảo tồn thiên nhiên Bán đảo Sơn Trà tại Quyết định số 1976/QĐ-TTg ngày 30/10/2014 của Thủ tướng Chính phủ đảm bảo phù hợp, thống nhất với quy hoạch tổng thể bảo tồn đa dạng sinh học, quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai...
3. Giao Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Tài chính: phối hợp với UBND TP Đà Nẵng rà soát, xác định giá đất đối với các dự án theo quy định của pháp luật và phù hợp với yếu tố đặc thù tại Bán đảo Sơn Trà.
4. Giao Bộ Quốc phòng: chủ trì, phối hợp với UBND TP Đà Nẵng kiểm tra, rà soát yếu tố an ninh quốc phòng đối với các dự án trên Bán đảo Sơn Trà để xử lý, đảm bảo theo đúng quy định của pháp luật.
5. Giao Bộ Công an,điều tra, xử lý theo quy định đối với các vi phạm:
- Tại Dự án Khu du lịch sinh thái biển, biệt thự cao cấp Ghềnh Bàn - Bãi Đa do Công ty CP Xây dựng 79 làm Chủ đầu tư: Khi giao đất, các cơ quan chức năng thẩm định không đầy đủ về nhu cầu sử dụng đất theo quy định tại Thông tư số 30/2014/TT-BTNMT; UBND TP Đà Nẵng xác định tiền chuyển quyền sử dụng đất với diện tích thấp hơn so với quy hoạch chi tiết xây dựng TL 1/500 là 13.679 m2; Chủ đầu tư không thực hiện đúng tiến độ dự án được phê duyệt, vi phạm quy định tại điểm i Khoản 1 Điều 64 Luật Đất đai năm 2013; sau khi được cấp 33 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích 194.968 m2, Chủ đầu tư ký hợp đồng góp vốn bằng 33 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, có biểu hiện chuyển nhượng dự án nhưng không thấy doanh nghiệp kê khai, nộp các khoản nghĩa vụ có liên quan vào Ngân sách nhà nước.