Sáng nay (21/10), trong phiên khai mạc kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XIII, Ủy ban Kinh tế đã có Báo cáo thẩm tra đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2013 và 3 năm 2011-2013; Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2014.
Theo Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Nguyễn Văn Giàu, kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 3 năm 2011-2013, theo Nghị quyết Kế hoạch kinh tế - xã hội 5 năm của Quốc hội với mục tiêu tổng quát 2-3 năm đầu là “Tập trung ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, tăng trưởng ở mức hợp lý” nhìn tổng thể kết quả 3 năm thì cơ bản đã đạt được mục tiêu tổng quát này. Các cân đối lớn của nền kinh tế đạt kết quả tích cực hơn. Cân đối tiết kiệm – đầu tư có chuyển biến rõ rệt. Từ năm 2011 đến nay tổng tiết kiệm luôn bằng hoặc cao hơn tổng đầu tư. Cung cầu hàng hóa bảo đảm. Cân đối lương thực đã thực hiện mục tiêu an ninh lương thực, đồng thời xuất khẩu lương thực ngày càng tăng. Cân đối điện đủ nhu cầu sản xuất – tiêu dùng và có dự phòng. Cân đối lao động ổn định trong điều kiện kinh tế rất khó khăn. Hai năm 2012 và 2013 cán cân thương mại có sự cải thiện đáng kể, xuất khẩu giữ nhịp độ tăng trưởng cao, đặc biệt khu vực doanh nghiệp FDI và ngành nông nghiệp liên tục xuất siêu từ năm 2008 đến nay.
Đa số ý kiến đánh giá đây là thành tựu chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế đúng hướng, có phần rất lớn là điều chỉnh mục tiêu phù hợp tạo ra sự cân bằng các mục tiêu đối với nền kinh tế nhưng cũng có ý kiến cho rằng việc cán cân thương mại cải thiện là hệ quả của suy giảm kinh tế. Hệ số ICOR đã giảm từ mức 6,7 giai đoạn 2008-2010 xuống còn 5,53 giai đoạn 2011-2013 cho thấy chất lượng đầu tư phát triển có xu hướng cải thiện; việc triển khai nguồn vốn đầu tư phát triển theo kế hoạch trung hạn đã bước đầu phân bổ vốn nhà nước một cách tập trung, hiệu quả hơn.
Các chỉ tiêu kinh tế-xã hội đều đạt thấp
Tuy nhiên, theo đánh giá của Ủy ban Kinh tế, các chỉ tiêu kinh tế, xã hội đạt thấp theo Nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI và Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch 5 năm 2011-2015. Một số ý kiến cho rằng, kinh tế nước ta vẫn đang trong giai đoạn khó khăn, tiếp tục phải đối mặt với áp lực lớn trong ngắn hạn và chưa thể trở lại quỹ đạo tăng trưởng nhanh trong 1-2 năm tới. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 3 năm 2011-2013 dự kiến sẽ chỉ đạt 5,6%/năm, là mức thấp nhất trong 13 năm trở lại đây, thấp xa so với chỉ tiêu tăng trưởng bình quân theo kế hoạch (6,5-7%). Trong khi tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước ta chậm lại thì một số nước trong khu vực ASEAN đã có sự cải thiện rõ rệt.
Sản xuất nông nghiệp được đánh giá là trụ đỡ của nền kinh tế trong lúc khó khăn, tuy nhiên tốc độ tăng trưởng có xu hướng giảm dần từ 3,3% giai đoạn 2006-2010 dự báo chỉ còn 2,81% trong năm 2013. Tình trạng sụt giảm mạnh cả về giá và số lượng tiêu thụ, nhất là các sản phẩm lúa, gạo, cá tra, cà phê trong năm 2012 và 9 tháng đầu năm 2013 tiếp tục tác động tiêu cực đến đời sống nông dân và tổng cầu của nền kinh tế. Chính sách mua tạm trữ lúa, gạo chưa cải thiện nhiều. Vẫn còn tình trạng doanh nghiệp không có mạng lưới thu mua trực tiếp từ nông dân mà thông qua thương lái nên tình trạng ép giá mua vẫn xảy ra phổ biến.
Doanh nghiệp giải thể, phá sản vẫn còn lớn
Tồn kho hàng hóa có giảm trong đó có bộ phận do doanh nghiệp khó khăn thị trường buộc phải cắt giảm công suất, hoạt động cầm chừng đã diễn ra từ năm 2012 và tiếp tục kéo dài đến nay. Số lượng doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động đã quay trở lại (tổng số là 64.906 doanh nghiệp) 8 tháng năm 2013 có xu hướng tăng dần, tuy nhiên vẫn không nhiều hơn đáng kể số lượng doanh nghiệp giải thể, phá sản, ngừng hoạt động (tổng số là 60.438 doanh nghiệp).
Các doanh nghiệp hiện đang hoạt động vẫn đối mặt với rất nhiều khó khăn, bắt đầu đã có một số doanh nghiệp quy mô trung bình và lớn mặc dù đã cầm cự được trong mấy năm vừa qua, nhưng đến nay vẫn phải ngừng hoạt động, giải thể, phá sản sẽ tác động tiêu cực hơn tới vấn đề lao động, việc làm và thu ngân sách nhà nước.
Việc tiếp cận vốn tín dụng đối với doanh nghiệp còn nhiều khó khăn; cho vay hỗ trợ nhà ở xã hội dự kiến với số tiền khoảng 30.000 tỷ đồng đã triển khai nhưng số tiền giải ngân chương trình này còn ở mức rất thấp.
Tỷ lệ thất nghiệp cao
Thiếu việc làm ở nông thôn có xu hướng tăng; tỷ lệ thất nghiệp chung theo báo cáo là giảm, nhưng thực chất là do lao động ở khu vực chính thức đã phải chuyển sang làm việc trong khu vực phi chính thức, đồng thời nhiều lao động thiếu việc làm, không có việc làm thường xuyên, thu nhập thấp và thiếu ổn định. Tốc độ tăng năng suất lao động có xu hướng chậm lại, trong giai đoạn 2003-2007 tốc độ tăng năng suất lao động đạt khoảng 5,17% mỗi năm, giai đoạn 2008-2012 chỉ còn khoảng 3,08% mỗi năm. Nhiều ý kiến cho rằng với thực trạng nền kinh tế và tình hình doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn trong những năm qua nhưng số liệu liên quan đến việc làm, thất nghiệp không có biến động lớn là chưa thỏa đáng; vì vậy cần tiếp tục đánh giá sâu sắc, thực chất hơn, làm rõ mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, tình trạng khó khăn của các doanh nghiệp với chỉ tiêu việc làm, thất nghiệp.
Bội chi ngân sách 4,5% vào 2015 là khó
Bội chi ngân sách giảm từ mức 4,9% năm 2011 xuống 4,8% năm 2012 và dự kiến năm 2013 tăng lên 5,3%; ước thực hiện cả năm hụt thu cân đối ngân sách 59.430 tỷ đồng, dự báo 2014 có khả năng sẽ hụt thu ở mức cao hơn nên khó đạt chỉ tiêu đến năm 2015 bội chi ngân sách kể cả trái phiếu Chính phủ dưới 4,5% GDP theo Nghị quyết Quốc hội. Kinh tế vĩ mô chưa có các yếu tố bền vững, các yếu tố phi thị trường vẫn còn tiềm ẩn. Cải cách tiền lương trong khu vực công phải thực sự là động lực nhưng chưa có nguồn lực để thực hiện; lộ trình thị trường hóa giá điện, than, dịch vụ công vẫn chưa bảo đảm theo Nghị quyết của Quốc hội là chậm nhất đến 2013 thực hiện theo giá thị trường. Nền kinh tế đứng trước thách thức: một mặt phải sớm chấm dứt can thiệp thị trường bằng các công cụ hành chính để tránh méo mó về các chính sách và phân bổ nguồn lực; mặt khác những khó khăn kinh tế vĩ mô khiến áp lực lạm phát tăng cao luôn tiềm ẩn và mỗi quyết định điều chỉnh chính sách trong quá trình điều hành nếu không hợp lý về thời điểm và liều lượng sẽ gây nên những tác động đến kinh tế vĩ mô, ảnh hưởng tiêu cực đến tâm lý thị trường, tác động xấu đến an sinh xã hội./.