Kiểm toán Nhà nước vừa cho biết kết quả kiểm toán chuyên đề về trích lập quản lý và sử dụng Quỹ bình ổn giá xăng dầu giai đoạn 2009 -2010.

Theo kết luận của báo cáo kiểm toán, việc trích lập, sử dụng bình ổn giá xăng dầu của các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu thời gian qua được thực hiện khá nghiêm túc theo quy định của Nhà nước. Số trích lập và sử dụng Quỹ bình ổn giá của các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu đầu mối cơ bản phù hợp với số phải trích lập và số được sử dụng Quỹ bình ổn giá. Những số liệu chênh lệch giữa số liệu báo cáo và kiểm toán là do một vài văn bản hướng dẫn trích lập và sử dụng Quỹ bình ổn giá của Tổ Giám sát Liên Bộ thiếu rõ ràng, cụ thể làm các doanh nghiệp đầu mối hiểu không đúng dẫn đến thực hiện chưa đúng, chưa đầy đủ. Kết quả kiểm toán cho thấy: việc trích lập Quỹ bình ổn giá qua 10 doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu đầu mối trong 2 năm 2009 và 2010 là gần 5.555 tỷ đồng.

Tuy nhiên vẫn còn những hạn chế trong quá trình điều hành, hướng dẫn cơ chế trích lập, quản lý, sử dụng và quyết toán Quỹ bình ổn giá làm cho doanh nghiệp lúng túng, một số yếu tố trong cơ cấu giá thực tế phát sinh như chênh lệch tỷ giá ngoại tệ, lãi vay trong và sau thời gian lưu thông nhưng chưa đươc quy định trong cơ cấu giá cơ sở (nghị định 84/2009 chưa có yếu tố này).

Bên cạnh đó, trong cơ chế trích lập, khi doanh nghiệp xăng dầu đầu mối tham gia thực hiện nhiệm vụ bình ổn giá mà kết quả kinh doanh bị lỗ vẫn phải trích lập Quỹ bình ổn giá, doanh nghiệp phải lấy vốn của mình để trích lập Quỹ bình ổn giá. Vì giá bán lẻ thấp hơn giá cơ sở thì sẽ không có Quỹ bình ổn giá của người tiêu dùng. Vịêc này dẫn đến làm tăng chi phí, tăng giá cơ sở; khi đó việc trích lập Quỹ bình ổn giá không có ý nghĩa, doanh nghiệp đã lỗ càng thêm lỗ và tạo ra Quỹ bình ổn giá nhưng không có thực vì giá bán đã thấp hơn giá cơ sở thì không có Quỹ.

Ngoài ra, Quỹ vẫn còn tồn tại một số nhược điểm như dễ phát sinh rủi ro, không tách được số lãi do số dư Quỹ bình ổn giá khi chưa sử dụng mang lại. Việc để Quỹ tại doanh nghiệp có những hạn chế về tính minh bạch, dễ bị doanh nghiệp lạm dụng để sử dụng vào mục đích khác, rủi ro đối với Quỹ cao mà không có biện pháp phòng ngừa, không tách bạch được các khoản lãi từ Quỹ mang lại./.