Ông đã lập nên nhiều chiến công, trở thành một chiến sĩ tình báo độc đáo và khiến kẻ thù cũng phải khâm phục.

ngoc_nha_lzts.jpg
Thiếu tướng tình báo Vũ Ngọc Nhạ. (Ảnh: Baothaibinh.vn)

Nhà tình báo lỗi lạc

Vũ Ngọc Nhạ tên thật là Vũ Xuân Nhã, sinh ngày 30/3/1928, tại xã Vũ Hội, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình, trong một gia đình nhà Nho hiếu học. Năm 15 tuổi, ông được bố đưa vào Huế theo học tại Trường Trung học Thuận Hóa. Tại đây, ông đã được giác ngộ về lòng yêu nước, về lý tưởng cách mạng. Sau đó, ông được giới thiệu vào Mặt trận Việt Minh và được kết nạp Đảng ngày 20-6-1947.

Năm 1952, Vũ Ngọc Nhạ mang tên Vũ Ngọc Kép, có mặt trong đoàn đại biểu quân sự tỉnh Thái Bình đi dự Hội nghị chiến tranh du kích Bắc Bộ tại Việt Bắc do Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Tổng tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái chủ trì. Cũng tại cuộc Hội nghị này, Vũ Ngọc Nhạ đã nhận nhiệm vụ quan trọng do chính Hồ Chủ tịch và Đại tướng Võ Nguyên Giáp trực tiếp giao phó: “Nhiệm vụ của chú là phải bằng mọi cách để biết được Mỹ đang làm gì, Mỹ sẽ làm gì và Mỹ đã làm gì”.

Nhờ trí tuệ thông minh và lòng ham học hỏi, nghiên cứu mà ông đã hiểu sâu sắc mọi vấn đề về quân sự, kinh tế, tôn giáo, ngoại giao… nên ông được kính nể, cậy nhờ và tin tưởng.

Vũ Ngọc Nhạ được tổ chức chỉ đạo Nam tiến, luồn sâu, leo cao trở thành cố vấn thân cận cho giới lãnh đạo trong chính quyền Thiệu- Kỳ. Từ Dinh Độc Lập, nhà tình báo chiến lược Vũ Ngọc Nhạ đã thiết lập nên mạng lưới tình báo A22, với những cộng sự là người có địa vị cao trong bộ máy chính quyền Sài Gòn lúc bấy giờ. Ông đã trải qua một thời gian bị chính quyền Ngô Đình Diệm bắt giam và sau đó, do mưu trí và dũng cảm đã thực hiện thành công kế hoạch "chui sâu, luồn cao", trở thành một nhân vật "tâm phúc" của gia đình họ Ngô, giữ vai trò cố vấn của Ngô Đình Diệm.

Sau khi Diệm bị đảo chính và sát hại, Vũ Ngọc Nhạ đã tiếp cận thành công với những nhóm cầm quyền mới ở Sài Gòn và tiếp tục trở thành cố vấn của 2 đời tổng thống tiếp theo là Nguyễn Văn Thiệu và Dương Văn Minh. Những người nắm giữ vai trò cao nhất trên chính trường Sài Gòn, cũng là nguồn cung cấp tin chính xác về tình báo chiến lược trực tiếp cho ông Nhạ.

Nhờ chiếm được vị trí quan trọng này mà ông đã lấy được hàng loạt tài liệu chiến lược, sách lược tuyệt mật: từ kế hoạch “Xây dựng ấp chiến lược”, “Kế hoạch Stalay Taylor”… thời Diệm, đến “Kế hoạch bình định nông thôn”, “Kế hoạch Phượng Hoàng”, “Kế hoạch đổ quân của Mỹ”, “Sách lược chiến tranh đặc biệt”… thời Thiệu… để Đảng kịp thời có đối sách lãnh đạo đường lối đấu tranh.

Ông và cộng sự của mình trong mạng lưới tình báo A22 đã làm nên một huyền thoại kỳ diệu trong lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc Việt Nam.

Chính khách cao cấp của Mỹ - ngụy phải kính nể

Từ những năm 1960, Vũ Ngọc Nhạ đã rất nổi tiếng. Báo chí Sài Gòn và nhiều tờ báo lớn ở các nước phương Tây nhắc đến ông với những câu chuyện bí ẩn, ly kỳ với sự thán phục.

Trong bộ hồ sơ thu được tại Nha Tổng giám đốc cảnh sát quốc gia Nguỵ quyền Sài Gòn, có đoạn viết: “Từ trước đến nay, ngoại trừ những giai thoại giả tưởng trong tiểu thuyết trinh thám, chưa bao giờ có những tổ điệp báo thành công đến như thế. Cụm A22 do ông Vũ Ngọc Nhạ đứng đầu phát triển đều đặn và thi thố nhiều thủ đoạn mà chúng ta phải nhìn nhận là huyền diệu và xuất sắc. Cụm phát triển một hệ thống điệp vụ vô cùng quan trọng và đã len lỏi vào được nhiều cơ quan đầu não của Việt Nam Cộng hoà. Những tin tức chiến lược mà Cảnh sát Quốc gia biết họ cung cấp, đều có giá trị giúp cho Hà Nội có được những dữ kiện chắc chắn khi ấn định chính sách của họ đối với cuộc chiến tranh”.

Với những chiến công xuất sắc, sau năm 1975, ông Vũ Ngọc Nhạ tiếp tục công tác tại Tổng cục II, Bộ Quốc phòng. Tuy nhiên, mãi đến năm 1987, khi cuốn tiểu thuyết “Ông cố vấn - hồ sơ một điệp viên” của nhà văn Hữu Mai xuất bản, thân thế và sự nghiệp của ông mới được công chúng biết tới. Năm 1988, ông được phong hàm Thiếu tướng.

Cuộc đời và sự nghiệp của Vũ Ngọc Nhạ vĩ đại như những huyền thoại. Danh lợi đối với ông dường như vô nghĩa, vì ông nhận thức rằng “được bao giờ cũng đi đôi với mất”. Tên tuổi, sự nghiệp của ông không chỉ làm cho hàng chục triệu người con đất Việt cảm phục, ngưỡng mộ, mà còn làm cho đối phương, ngay cả những chính khách cao cấp của Mỹ và ngụy cũng phải kính nể.

Đầu năm 2000, căn bệnh ung thư gan bắt đầu bột phát. Ông đã kiên cường chiến đấu với bệnh tật nhưng sức yếu, bệnh trọng ông đã ra đi cách đây 15 năm./.