Quá trình cổ phần hóa (CPH) và thoái vốn Nhà nước tại Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) thời gian qua diễn ra chậm chạp, khiến cho không ít nhà đầu tư nản lòng, mất niềm tin vào lộ trình, kế hoạch mà Chính phủ đặt ra.

Nêu nguyên nhân của sự chậm chạp này, ông Lê Song Lai, Phó Tổng Giám đốc Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC) cho rằng, các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động thoái vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp còn chồng chéo và được đưa ra ở nhiều văn bản thay vì tại 1 văn bản duy nhất. Từ đó dẫn đến nhiều hệ lụy phát sinh như việc tham chiếu, vận dụng gặp không ít khó khăn.

img_20180612_100238_tild.jpg
Ông Lê Song Lai, Phó Tổng Giám đốc SCIC cho rằng, các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động thoái vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp còn chồng chéo.

Đặc biệt, theo ông Lai, Nghị định 32 quy định khi xác định giá khởi điểm để chuyển nhượng vốn, DNNN phải lựa chọn ký hợp đồng thuê tổ chức có chức năng thẩm định giá để xác định, đảm bảo tuân thủ quy định của pháp luật về thẩm định giá.

“Doanh nghiệp vẫn phải thuê ít nhất 2 tổ chức tư vấn là công ty thẩm định giá (để thực hiện xác định giá trị doanh nghiệp) và công ty chứng khoán (để tổ chức bán cổ phần). Điều này đẩy chi phí tư vấn tăng thêm 2-3 lần so với trước đây. Trong khi đó, vẫn còn thiếu quy định pháp lý để ngăn chặn tình trạng xung đột lợi ích, cũng như vấn đề về trách nhiệm pháp lý của các tổ chức tham gia”, ông Lai nêu nguyên nhân.

Từ thực tế triển khai bán vốn Nhà nước của SCIC, ông Lai cũng nhận định, việc đánh giá doanh nghiệp hiện nay vẫn còn nhiều lúng túng, từ việc cân nhắc, hài hòa giữa các mục tiêu tối đa hóa số tiền thu về cho cổ đông Nhà nước, với việc tìm kiếm nhà đầu tư chiến lược giúp cho phát triển doanh nghiệp.

Đề cập đến những bất cập của quá trình CPH hiện nay, PGS.TS. Ngô Trí Long, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu thị trường giá cả (Bộ Tài chính) cho rằng, trên thực tế, sự tham gia của nhà đầu tư tư nhân vào khu vực DNNN còn rất hạn chế. Tính đến hết năm 2017, tỷ lệ vốn nhà nước thực bán qua CPH và thoái vốn chỉ chiếm khoảng 7,5% của tổng số vốn Nhà nước nắm giữ.

Trong giai đoạn từ năm 2011 - 2016, với con số 426 doanh nghiệp, nhà đầu tư chiến lược chỉ nắm giữ 7,3% vốn điều lệ của doanh nghiệp CPH. Điều này dẫn đến một thực tế đáng quan ngại là việc tham gia Hội đồng quản trị của Nhà đầu tư chiến lược chỉ mang tính hình thức…

Cần thận trọng đánh giá nhà đầu tư tiềm năng

Theo PGS. TS Ngô Trí Long, việc lựa chọn nhà đầu tư chiến lược trong quá trình CPH hoặc thoái vốn Nhà nước có ý nghĩa quan trọng đối với mục tiêu phát triển bền vững của doanh nghiệp, ngành và cho cả nền kinh tế.

Nếu như ở khu vực tư nhân, khi thực hiện các giao dịch mua bán, sáp nhập, họ thường chỉ quan tâm tới khoản thu tài chính ngắn hạn thì Nhà nước, với vai trò là chủ thể kiến tạo sự phát triển của quốc gia, cần có một tầm nhìn dài hạn và toàn diện hơn trong quá trình tìm kiếm nhà đầu tư chiến lược.

“Bên cạnh việc CPH, thoái vốn tại DNNN với mức giá hợp lý và không làm thất thoát tài sản, Nhà nước cần quan tâm hơn nữa đến các yếu tố để đảm bảo sự phát triển bền vững thông qua việc lựa chọn nhà đầu tư chiến lược phù hợp”, ông Long nêu rõ.

Từ đó, ông Long đề xuất, nhà đầu tư chiến lược cần có khả năng duy trì, phát triển ngành nghề kinh doanh chính và bảo vệ thương hiệu Việt. Để đảm bảo lựa chọn được đúng nhà đầu tư phù hợp, Chính phủ cần thận trọng đánh giá lịch sử hoạt động của nhà đầu tư tiềm năng để phát hiện các tín hiệu không khả quan.

Bên cạnh đó, để đảm bảo có thể thúc đẩy, mở rộng thị trường cho sản phẩm thì Nhà đầu tư chiến lược cũng cần có kinh nghiệm dày dạn ở thị trường Việt Nam, đảm bảo có thể kế thừa và phát triển tốt các sản phẩm của doanh nghiệp sau CPH, thoái vốn.

Cũng theo ông Long, để quá trình CPH, thoái vốn nhà nước hỗ trợ tốt hơn nữa cho mục tiêu cải thiện chất lượng quản trị tại doanh nghiệp, trước hết, Nhà nước cần phải nhận thức được vai trò quan trọng của các nhà đầu tư chiến lược và tạo môi trường để các nhà đầu tư này tham gia tích cực hơn vào quá trình điều hành hoạt động của doanh nghiệp.

Song song với việc này, cần có cơ chế cho phép nhà đầu tư chiến lược nắm giữ được một lượng cổ phần đủ lớn để có thể tạo ra sự ảnh hưởng có ý nghĩa tới hoạt động của doanh nghiệp. Có như vậy mới có thể tận dụng được các lợi thế của nhà đầu tư, cải thiện sản xuất, kinh doanh, tiết kiệm chi phí nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp sau CPH.

Ông Vương Tuấn Dương, Phó Giám đốc điều hành Tập đoàn VinaCapital cho rằng, thực tế cho thấy doanh nghiệp hoạt động hiệu quả hơn sau CPH. Do vậy đã đóng góp tốt hơn cho nền kinh tế và cả Ngân sách Nhà nước. Khi doanh nghiệp hoạt động hiệu quả thì các đợt thoái vốn Nhà nước tiếp theo sẽ có giá trị cao hơn, giúp đem lại nguồn thu lớn hơn cho ngân sách.

Chính vì vậy, Chính phủ vẫn cần có biện pháp đảm bảo tiến độ chương trình CPH, tránh để các biến động tăng, giảm của thị trường làm ảnh hưởng quá lớn đến số lượng các doanh nghiệp được CPH. Đặc biệt, đối với các thương vụ lớn, Chính phủ cần lên kế hoạch kỹ càng từ trước và thực hiện dần từng bước, tránh gây ra tình trạng thị trường không hấp thu kịp.

Liên quan đến việc minh bạch hóa thông tin DNNN, bảo đảm cho công chúng và thị trường có được thông tin đầy đủ, kịp thời, ông Vương Tuấn Dương đề xuất, theo định kỳ 6 tháng, hoặc ít nhất là hàng năm, Chính phủ nên cung cấp cho báo chí, cộng đồng nhà đầu tư những thông tin cơ bản về kế hoạch CPH, thoái vốn cho giai đoạn vừa qua; Những thành quả đạt được và các biện pháp khắc phục khi không đạt kế hoạch…/.