Những ai được bảo vệ?
Luật Tố cáo hiện hành quy định đối tượng bảo vệ bao gồm người tố cáo và người thân thích của người tố cáo. Còn Dự thảo Luật trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 4 và mới được Ủy ban Thường vụ Quốc hội tiếp tục cho ý kiến về một số vấn đề lớn còn ý kiến khác nhau quy định theo hướng thu hẹp đối tượng được bảo vệ chỉ bao gồm người tố cáo. Qua thảo luận, có ý kiến nhất trí quy định nêu trên; ý kiến khác cho rằng, không nên thu hẹp đối tượng bảo vệ nhằm khuyến khích người dân thực hiện quyền tố cáo.
Thường trực Ủy ban Pháp luật và Cơ quan soạn thảo thì nhận thấy, về cơ bản, quyền và lợi ích hợp pháp người tố cáo, những người liên quan đến người tố cáo đều được bảo vệ theo quy định của Hiến pháp và pháp luật; tuy nhiên trong một số trường hợp đặc biệt thì cần có những biện pháp tích cực, chủ động hơn để bảo vệ kịp thời, có hiệu quả quyền của người tố cáo.
Dự thảo Luật Tố cáo (sửa đổi) sẽ được trình ra Quốc hội thảo luận tại Kỳ họp tới đây đã làm rõ hơn đối tượng “người thân thích của người tố cáo” |
Bộ luật Tố tụng hình sự và một số văn bản pháp luật khác cũng có quy định về các biện pháp bảo vệ đối với một số đối tượng như người tố giác tội phạm, người làm chứng, bị hại ... Để vừa thực hiện chủ trương của Đảng về tăng cường công tác bảo vệ người tố cáo, vừa bảo đảm tính khả thi, thực chất, phù hợp với công tác giải quyết tố cáo, dự thảo Luật đã kế thừa quy định về đối tượng bảo vệ là người tố cáo, xác định rõ hơn đối tượng “người thân thích của người tố cáo” là những người thân thuộc hàng thừa kế thứ nhất quy định tại Bộ luật Dân sự, đồng thời xác định rõ các căn cứ, điều kiện để được bảo vệ.
Cụ thể, khoản 1 Điều 45 của dự thảo Luật quy định người tố cáo, vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người tố cáo được bảo vệ trong trường hợp: Người tố cáo có yêu cầu được bảo vệ cho những người đó khi có căn cứ về việc tính mạng, sức khỏe của họ đang bị xâm hại hoặc có nguy cơ bị xâm hại ngay tức khắc hay họ bị trù dập, phân biệt đối xử tại nơi công tác, nơi làm việc do việc tố cáo; Cơ quan có thẩm quyền có căn cứ về việc các quyền và lợi ích hợp pháp của những người đó đang bị xâm hại hoặc bị đe dọa xâm hại làm ảnh hưởng đến quá trình giải quyết tố cáo.
Tập trung vào biện pháp mang tính tức thời, khẩn cấp
Dự thảo Luật quy định nội dung bảo vệ bao gồm: Bảo vệ bí mật thông tin, bảo vệ vị trí việc làm, bảo vệ các quyền công dân tại nơi cư trú của người tố cáo, thu hẹp hơn so với Luật hiện hành. Qua thảo luận, có ý kiến tán thành với quy định nêu trên; có ý kiến đề nghị nội dung bảo vệ cần bao quát, đầy đủ các lĩnh vực mà người tố cáo bị xâm hại hoặc bị đe dọa xâm hại. Một số ý kiến khác cho rằng, quy định về nội dung bảo vệ cần cụ thể, thiết thực để có tính khả thi hơn.
Theo Thường trực Ủy ban Pháp luật và Cơ quan soạn thảo, việc quy định dàn trải về nội dung bảo vệ vừa khó bảo đảm tính khả thi, vừa trùng lặp với các biện pháp bảo vệ quyền con người, quyền công dân nói chung đã được Hiến pháp và pháp luật ghi nhận.
Việc bảo vệ trong quá trình giải quyết tố cáo cần tập trung vào các biện pháp mang tính tức thời, khẩn cấp, chủ yếu là trong các trường hợp tính mạng, sức khỏe là các quyền nhân thân cơ bản, quan trọng nhất của con người bị xâm hại hoặc có nguy cơ bị xâm hại trực tiếp hoặc vị trí công tác, việc làm của người được bảo vệ bị đe dọa hay bị phân biệt đối xử là các trường hợp diễn ra khá phổ biến.
Do đó, Thường trực Ủy ban Pháp luật đề nghị chỉnh lý dự thảo Luật theo hướng tập trung quy định các biện pháp bảo vệ bí mật thông tin, bảo vệ vị trí công tác, việc làm, bảo vệ tính mạng, sức khỏe.
Bên cạnh đó, để khắc phục những hạn chế trong áp dụng pháp luật thời gian qua, tạo thuận lợi cho việc triển khai thực hiện trên thực tế, dự thảo cũng được chỉnh lý, bổ sung các quy định về trách nhiệm của các cơ quan trong việc bảo vệ, nội dung các biện pháp bảo vệ, trình tự, thủ tục áp dụng các biện pháp bảo vệ…/.
Dự thảo luật quy định người tố cáo có thể rút toàn bộ nội dung tố cáo hoặc một phần nội dung tố cáo trước khi cơ quan có thẩm quyền ra kết luận nội dung tố cáo. Việc rút tố cáo không loại trừ trách nhiệm của người tố cáo trong trường hợp lợi dụng việc tố cáo để vu khống, xúc phạm, gây thiệt hại cho người bị tố cáo.
Trường hợp xét thấy hành vi bị tố cáo có dấu hiệu vi phạm pháp luật hoặc có căn cứ cho rằng việc rút tố cáo do bị đe dọa, ép buộc, mua chuộc hoặc người tố cáo lợi dụng việc tố cáo để vu khống, xúc phạm, gây thiệt hại cho người bị tố cáo thì vụ việc tố cáo vẫn được người có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật.
Có nên quy định hình thức tố cáo qua điện thoại?