Sáng nay (19/6), 107.000 thí sinh tham dự kỳ thi tuyển sinh lớp 10 tại Hà Nội đã hoàn thành bài thi môn Toán.

Nhận xét về đề thi Toán năm nay, TS Đỗ Viết Tuân, giáo viên dạy Toán tại Hà Nội đánh giá, đề thi tương đối cơ bản, cấu trúc đề quen thuộc. Mức độ phân hóa đề thi nằm ở ý 3 bài 1, câu 2b bài 3, câu 3 bài 4 và bài 5. Nhìn chung đề tương đối dễ chịu và quen thuộc với quá trình ôn luyện của  học sinh.

Với đề thi này, nếu học chắc kiến thức cơ bản, thí sinh dễ dàng đạt được mức điểm 7 trở lên.

Còn theo thầy Nguyễn Viết Tiến, Tổ trưởng Tổ Toán Trường THCS Xuân Sơn (Hà Nội), đề Toán năm nay khá phù hợp trong bối cảnh học sinh học online dài ngày trong suốt 3 năm liên tiếp, ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình tiếp thu kiến thức của các em.

Đề thi môn Toán khá nhẹ nhàng tuy nhiên vẫn có sự phân loại học sinh nhưng mức độ không cao như những năm học trước, khi học trực tiếp.

“Tôi cho rằng đề thi dù dễ thở, sẽ có nhiều thí sinh đạt điểm 10 môn Toán, nhưng không lo xảy ra hiện tượng mưa điểm 10 vì các em phải học online khá nhiều và đề vẫn có câu phân loại. Học sinh học không chắc vẫn có thể dẫn đến hiểu nhầm và làm sai ở bài 5.

Với đề thi này, phổ điểm có thể từ 7-8 điểm với học sinh khu vực nội thành, khu vực ngoại thành, điều kiện học tập hạn chế hơn, phổ điểm có thể thấp hơn một chút, từ 5-6 điểm. Nhìn chung, mức độ ra đề của Sở GD-ĐT năm nay có thể làm yên lòng phụ huynh, học sinh và giáo viên”.

Nhận xét chi tiết từng phần của đề thi, thầy Nguyễn Cao Cường, Hiệu trưởng trường THCS Thái Thịnh, quận Đống Đa, Hà Nội đánh giá, về cấu trúc đề thi vẫn ổn định so với các năm học trước gồm 5 bài. Đây là một đề thi phù hợp với việc đại đa số học sinh có thời gian dài học trực tuyến. Đề thi nhẹ nhàng, có tính phân các đối tượng học sinh. Sự phân loại nằm ở các câu: 1.3; 3.2b; 4.3 và bài 5.

“Học sinh không bất ngờ với đề Toán năm nay. Mức độ điểm trung bình có thể ở 6,5-7,25 điểm. Nhiều câu hỏi học sinh rất lo lắng đã được giảm mức độ phù hợp như câu 3 bài 1, câu 2.2b, câu 2 bài 3. Tựu chung, đề Toán nhẹ nhàng, có tính phân loại, phù hợp với một năm học số học sinh học trực tuyến với thời gian dài”, thầy Cường nhận định.

Cụ thể, thầy Nguyễn Cao Cường phân tích, ở bài 1 (2 điểm), gồm 3 câu hỏi trong một bài Toán. Đây là dạng toán rút gọn biểu thức và câu hỏi phụ, một dạng toán rất quen thuộc. Học sinh dễ dàng thực hiện được câu 1, câu 2. Ở câu hỏi thứ 3, câu hỏi phân loại học sinh khá và học sinh trùng bình. Ở câu hỏi này học sinh thực hiện chuyển vế, lập luận mẫu dương suy ra tử âm, kết hợp điều kiện đề bài và điều kiện của câu hỏi tìm số nguyên dương lớn nhất sẽ tìm được kết quả.

Bài 2 (2 điểm) gồm 2 câu hỏi. Câu hỏi 1 là bài toán giải bằng cách lập phương trình, hệ phương trình. Bài toán thuộc dạng toán chuyển động quen thuộc, học sinh được làm quen, luyện tập nhiều trước kỳ thi. Câu hỏi này học sinh cần lưu ý khi chọn ẩn và đặt điều kiện chính xác, lập luận, giải phương trình và trình bày cẩn thận, kết luận vận tốc của mỗi xe. Câu hỏi 2: Bài toán thực tế liên quan đến kiến thức hình hình cầu. Học sinh chỉ cần nhớ kiến thức về diện tích mặt cầu, kết hợp với giả thiết của bài toán bán kính R=9,5cm. Khi trình bày, bước thay đầu tiên phải là xấp xỉ do đề cho pi gần bằng 3,14.

Bài 3 (2,5 điểm). Gồm 2 câu hỏi. Câu hỏi 1 là bài toán giải hệ phương trình quen thuộc. Học sinh cần lưu ý đặt điều kiện y khác 0. Học sinh có thể đặt ẩn phụ hoặc không để tìm kết quả. Kết hợp điều kiện và kết luận về nghiệm của hệ phương trình. Câu hỏi 2 là bài toán về phương trình bậc hai, hệ thức Vi-ét.

Ở ý a, sau khi xét phương trình hoành độ giao điểm, học sinh tính denta và chứng tỏ giá trị của nó luôn dương (do biểu thức có dạng bình phương cộng một số dương). Từ đó kết luận phương trình hoành độ giao điểm luôn có hai nghiệm phân biệt và suy ra đường thẳng luôn cắt parabol tại hai điểm phân biệt.

Ở ý b, học sinh chỉ cần nhân biểu thức của đề bài, đưa về tổng và tích hai nghiệm, áp dụng hệ thức Vi-ét là xử lý được. Câu hỏi này nhẹ hơn nhiều so với dự đoán của nhiều thí sinh

Bài IV (3,0 điểm) là bài tập hình học tổng hợp với 3 câu hỏi.

Câu hỏi 1 là câu cơ bản về tứ giác nội tiếp. Không khó khăn với học sinh. Câu hỏi 2, học sinh áp dụng hệ thức lượng cho hai tam giác vuông là xử lý được ý đầu. Ý thứ hai qua việc chỉ ra góc 45 độ và hai góc nội tiếp cùng chắn một cung của đường tròn nội tiếp tứ giác ở câu 1 là giải quyết được.

Câu hỏi 3 là câu khó, mang tính phân loại cao. Thông qua việc chứng minh 2 cặp góc bằng nhau, học sinh sẽ chứng tỏ được 3 điểm thẳng hàng.

Bài V (0,5 điểm) là bài toán cực trị đại số. Đây là bài toán khó dành cho học sinh giỏi./.