Sáng nay (14/6), các thí sinh đăng ký thi vào các trường THPT chuyên, lớp chuyên tại Hà Nội làm bài thi môn Ngữ văn (chuyên). Thời gian làm bài 150 phút, hình thức tự luận.
Nhận xét về đề thi năm nay, TS Trịnh Thu Tuyết, nguyên giáo viên Ngữ văn trường THPT Chu Văn An (Hà Nội) cho rằng, trong khung cấu trúc quen thuộc của đề thi với hai câu nghị luận xã hội (3,5 điểm) và nghị luận văn học (6,5 điểm), đề thi tuyển sinh vào 10, môn Ngữ văn (chuyên) của Sở GD -ĐT Hà Nội năm học 2021 – 2022 đặt ra cho những người quan tâm nhiều suy nghĩ.
Trước hết là cảm giác hài lòng vì cả hai câu nghị luận xã hội và nghị luận văn học đều đặt ra được những vấn đề hữu ích, thiết thực với cả cuộc sống và văn chương.
“Câu nghị luận xã hội khá minh triết từ nhan đề cuốn sách, phần trích dẫn cho đến câu lệnh đều giúp học sinh nhanh chóng xác định đúng vấn đề cần bàn luận, đó là “Yêu thương chính những điều không hoàn hảo”. Đây vốn không phải vấn đề mới mẻ, từ ngàn xưa, con người đã thấu hiểu lẽ “nhân vô thập toàn”, hiểu để chấp nhận, hiểu để bao dung, hiểu để tự điều chỉnh khắc phục và hướng tới sự hoàn hảo dẫu chỉ là tương đối (tất nhiên sự hoàn hảo, hoàn thiện luôn chỉ là tương đối trong cuộc sống, con người hay thiên nhiên vũ trụ).
Vấn đề dù không mới nhưng trong thời đại của thông tin, của những sự cố khủng hoảng truyền thông, của sự cạnh tranh và đánh giá nghiệt ngã, của bạt ngàn những cơ hội lựa chọn với nghề nghiệp hay các mối quan hệ… thì việc để học sinh bàn luận và thấu hiểu cả thế gian cũng như mỗi con người đều “có những điều không hoàn hảo” chính là cách giúp các em bình tâm, mạnh mẽ, nhân hậu hơn trước cuộc sống muôn màu sắc.
Đề bài cũng có khả năng gợi mở cho học sinh những nghịch lí, những bí ẩn kì diệu trong tâm hồn con người khi chúng ta thậm chí có thể yêu thương chính những vênh lệch, hao hụt, khuyết thiếu mà hờ hững với những sự được coi là hoàn hảo, toàn vẹn…”, cô Tuyết nhận xét.
Theo cô Tuyết, câu lệnh: “Từ gợi dẫn trên kết hợp với hiểu biết xã hội, hãy viết một bài văn nghị luận bàn về những điều chưa hoàn hảo mà em yêu thương” có ít nhất hai định hướng. Thứ nhất là định hướng về đối tượng nghị luận, đó không phải là chủ thể cảm nhận mà là đối tượng cảm nhận. Cụ thể, đó là “những điều chưa hoàn hảo mà em yêu thương” – trong khi cái hay, sâu, kì diệu của vấn đề mở ra không chỉ ở đối tượng mà chủ yếu lại là chủ thể.
Thứ hai là định hướng về xúc cảm của học sinh khi chỉ có một lựa chọn duy nhất là “yêu thương” những điều chưa hoàn hảo nào đó các em nhắc tới. Học sinh sẽ không có không gian độc lập cho lựa chọn thái độ hoặc xúc cảm trước “những điều chưa hoàn hảo” – bởi không nhất thiết chỉ có sự yêu thương, chấp nhận hay bao dung trước “những điều chưa hoàn hảo” của mình, của người. Bản chất của cuộc sống, con người là vận động hướng tới sự hoàn thiện, hoàn hảo – khao khát những vẻ đẹp tận thiện tận mĩ luôn là khao khát đẹp đẽ, nhân văn của con người, chính vì vậy, học sinh có thể đặt ra những vấn đề rộng hơn, xa hơn vể khát vọng hoàn hảo nếu không bị đề giới hạn trong định hướng. Cô Tuyết cho rằng, với câu lệnh: “Hãy trình bày suy nghĩ của em về quan niệm trên”, có lẽ các em sẽ rộng đất hơn cho suy ngẫm của thí sinh?
Về phần nghị luận văn học, TS Trịnh Thu Tuyết đánh giá, câu nghị luận văn học đưa ra quan niệm về một trong những tiêu chí sống còn của thi ca, đó là “cái mới”. Quan niệm “Trong nghệ thuật, không phải cái mới nào cũng hay, nhưng chắc chắn cái hay nào cũng mới” về cơ bản là chính xác khi khẳng định vai trò của sự sáng tạo mới mẻ trong nghệ thuật, như ý của Nam Cao: “Văn chương cần khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có”, hay như ý của Leonit Leonop: “Mỗi tác phẩm phải là một phát minh về hình thức và một khám phá về nội dung”… Sự nhàm cũ, lặp lại là cái chết của nghệ thuật nói chung, của thi ca nói riêng. Cũng cần nói thêm về biên độ ý nghĩa hơi rộng của từ “mới” trong cụm từ “cái hay nào cũng mới” – vì cái mới hàm chứa khá nhiều bình diện và mức độ, có thể là một cuộc cách mạng, có thể chỉ là đôi chút phá cách - nhiều khi một bài thơ hay chỉ bởi một tứ mới, một phá cách nho nhỏ trong hình thức hoặc nội dung, thậm chí vẫn trên nền cái truyền thống về thể loại, niêm luật hay ý tưởng…
Ví dụ Hoàng hạc lâu của Thôi Hiệu là một kiệt tác, trong đó tác giả đã có phá cách mới mẻ về niêm luật dù vẫn trong cấu trúc của thất ngôn bát cú. Nhưng chính chi tiết này lại tiềm tàng khả năng bàn luận, phản biện, trao đổi cho những học trò có năng lực văn chương, nếu có câu lệnh mang tính mở.
Câu lệnh của đề, “…hãy làm rõ những “cái mới” góp phần tạo nên “cái hay” của một vài bài thơ Việt Nam được sáng tác sau năm 1975 trong chương trình Ngữ văn 9” còn tạo ra giới hạn cho sự cảm thụ của học trò khi xác định rõ ngữ liệu các em được sử dụng để chứng minh quan niệm trong đề. Giả thiết các em không thấy những “bài thơ Việt Nam được sáng tác sau năm 1975 trong chương trình Ngữ văn 9” là hay, cũng không tìm thấy cái mới, tất yếu các em phải ép mình khen hay, khen mới. Bởi vậy, TS Trịnh Thu Tuyết cho rằng rất cần tháo những cái khung giới hạn cho các em được tự do suy tưởng và xúc cảm, nhất là với học sinh chuyên văn.
Còn theo cô Đỗ Khánh Phượng, giáo viên Ngữ văn, Hệ thống Giáo dục HOCMAI, với đề thi này, học sinh đòi hỏi phải có kiến thức sâu, rộng cả về hiểu biết xã hội và kiến thức văn học. Đặc biệt phải thuần thục các thao tác giải thích, chứng minh, bình luận mới có thể làm tốt. Đây là một đề thi hay, có sức phân loại cao, kiểm tra khá toàn diện các đơn vị kiến thức, kĩ năng của thí sinh. Đề có khả năng khơi gợi sự hứng thú của học sinh, tuy nhiên câu nghị luận văn học vẫn còn hạn chế sức viết của học sinh khi giới hạn các tác phẩn sáng tác sau 1975.
Cô Nguyễn Thị Thu Trang, giáo viên Ngữ văn, Trường THCS quốc tế Wellspring (Hà Nội) đánh giá, nhìn chung, đề thi Văn chuyên của Hà Nội năm nay hay, có tính phân loại, tạo cơ hội để học sinh bày tỏ quan điểm và kiểm tra toàn diện kiến thức văn học và kiến thức xã hội cũng như kĩ năng làm bài của học sinh. Tuy nhiên, đề thi chưa mang tính đột phá, tính thời sự hoặc có cách tiếp cận mới đối với học sinh./.