Đến nay, Việt Nam đã tham gia ký kết 15 FTA, trong đó 14 hiệp định đã có hiệu lực; 9 trong số những FTA này có sự tham gia đồng thời của cả Việt Nam và Singapore, trong đó có FTA với EU và Vương quốc Anh.
Với vị trí địa lý đặc thù của mình, Singapore đã trở thành một trạm trung chuyển thương mại lớn của thế giới. Trong khi đó, gần đây Việt Nam đang phát triển là một nền kinh tế sản xuất và xuất khẩu mới nổi, với nhiều sản phẩm có năng lực cạnh tranh đáng kể của ASEAN và thế giới. Thị trường xuất khẩu của Việt Nam đã được mở rộng; nhiều doanh nghiệp Việt Nam ngày càng tham gia sâu rộng vào chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu.
Đánh giá tiềm năng cũng như lợi thế của thị trường Singapore, ông Mai Phước Dũng, Đại sứ Việt Nam tại Singapore cho biết, Việt Nam và Singapore đang là những nền kinh tế mở của Đông Nam Á. Sản phẩm của hai nước mang tính bổ sung cho nhau, nên các doanh nghiệp cần tận dụng năng lực ở nhiều khía cạnh khác nhau để hợp tác khai thác xuất xứ cộng gộp, cùng tăng xuất khẩu sang nước thứ 3.
Thực tế từ nhiều năm qua, Việt Nam và Singapore là hai quốc gia ASEAN có sự hợp tác trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế, thương mại và đầu tư. Lũy kế đến tháng 7/2021, Singapore là đối tác đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) lớn thứ 3 của Việt Nam. Bên cạnh đó, Singapore còn là đối tác thương mại lớn thứ 10 trên toàn cầu và đối tác thương mại lớn thứ 4 của Việt Nam trong số các nước Đông Nam Á.
Nhận định về những lợi thế đã có giữa hai quốc gia, ông Vũ Bá Phú, Cục trưởng Cục XTTM (Bộ Công Thương) cho rằng, những lợi thế về năng lực cung ứng, năng lực thương mại mà doanh nghiệp hai nước đang có là vô cùng tiềm năng, nhất là trong bối cảnh là hai nước duy nhất trong khu vực có các FTA mang tính toàn diện với thị trường EU và Vương quốc Anh. “Nền kinh tế của hai nước Việt Nam – Singapore mang tính bổ trợ cao, nên việc hợp tác cùng khai thác và thâm nhập thị trường EU, Vương quốc Anh là hướng đi vô cùng đúng đắn”, ông Vũ Bá Phú khẳng định.
Hiện nay, EU đã ký hai FTA với Singapore và Việt Nam, tuy nhiên hàng hóa của Việt Nam và Singapore không cạnh tranh trực tiếp tại EU. Những mặt hàng xuất khẩu của Singapore sang EU bao gồm hóa chất và dược phẩm. Trong khi đó, Việt Nam bán các sản phẩm da giày, dệt may và thủy sản. Vì vậy, các doanh nghiệp của cả hai nước hoàn toàn có điều kiện tiếp cận và mở rộng thị trường tại EU tốt hơn trong thời gian tới.
Theo ông Alaim Cany, đại diện Phòng Thương mại châu Âu tại Việt Nam (EuroCham), từ khi FTA giữa Việt Nam và EU (EVFTA) chính thức có hiệu lực, 65% hàng xuất khẩu của EU sang Việt Nam và 71% hàng xuất khẩu của Việt Nam sang EU được miễn thuế. Trong thập kỷ tới, con số này sẽ tăng lên gần 99%. “Điều này sẽ khiến Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư châu Âu, đồng thời, hàng hóa Việt Nam cũng sẽ được đặc quyền tiếp cận thị trường tiêu dùng rộng lớn và thịnh vượng với khoảng 450 triệu dân EU”, ông Alaim Cany tin tưởng.
Cũng theo ông Alaim Cany, khả năng các FTA giữa EU với những quốc gia thành viên ASEAN khác hiện là viễn cảnh xa vời, do đó các doanh nghiệp Việt Nam và Singapore hoàn toàn có cơ hội tận dụng “lợi thế đi trước” và khẳng định mình trên thị trường châu Âu trước những đối thủ cạnh tranh.
Tuy nhiên, ông Alaim Cany cũng chỉ ra, rào cản phổ biến nhất đối với các thành viên EuroCham là thủ tục hành chính, nên các bên cần nỗ lực để đảm bảo việc thực hiện EVFTA suôn sẻ và thành công. Ngoài ra, thị trường EU có nhiều tiêu chuẩn cao về môi trường, nông nghiệp và phát triển bền vững, doanh nghiệp Việt Nam cần đáp ứng các tiêu chuẩn về môi trường, lao động cũng như an toàn thực phẩm để có thể bán được nhiều sản phẩm cho người tiêu dùng châu Âu.
Đồng tình với khuyến cáo của đại diện EuroCham, ông Sebastian Cortes Sanchez, Phó Giám đốc Trung tâm Thương mại châu Á cũng cho rằng, thương mại thế giới đang sụt giảm do dịch Covid 19 gây ra, đòi hỏi các doanh nghiệp phải tìm kiếm những nguồn lực mới để tăng năng lực cạnh tranh cho sản phẩm, đáp ứng được yêu cầu của thị trường. Chính vì thế, các FTA Việt Nam – EU, FTA Singapore – EU là những công cụ đã hiện hữu và các doanh nghiệp cần khai thác để cải thiện được khả năng cạnh tranh, giảm chi phí.
Tuy nhiên, ông Sebastian Cortes Sanchez cũng lưu ý các doanh nghiệp Việt Nam cần hiểu được biểu thuế của đối với dòng sản phẩm của doanh nghiệp mình, đồng thời nên quan tâm đến đến quy tắc xuất xứ và hạn ngạch xuất khẩu.
“Một số quy định cho phép doanh nghiệp khai thác biểu thuế, hàm lượng giá trị khu vực, quy trình liên quan đến chế biến…, doanh nghiệp phải tìm hiểu cụ thể để xác định xem các sản phẩm của mình có thỏa những quy định đó hay không?”, ông Sebastian Cortes Sanchez lưu ý./.