Sự ra đời của Nghị định 24 về quản lý hoạt động kinh doanh vàng đã tạo một bước chuyển mới trên thị trường này. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều ý kiến trái chiều về Nghị định này
Theo nhận xét của ông Nguyễn Đức Kiên – Phó Chủ nhiệm Ủy ban kinh tế của Quốc hội, thị trường vàng những ngày cuối tháng 7-8/2012 trở nên nóng đột biến. Chúng ta đã dự báo tốt tác động của thị trường vàng miếng đối với chính sách tiền tệ và chính sách quản lý ngoại hối. Nhưng chúng ta lại bỏ mất phần dự báo quan trọng về tỷ giá của vàng trang sức; tác động của quản lý vàng miếng đến vàng trang sức. Cho nên, chúng ta đã không có thông tin kịp thời cho nhân dân và dư luận xã hội, làm cho dư luận xã hội không đồng thuận với Chính phủ trong việc quản lý vàng miếng.
Ở đây, theo ông Kiên, cơ quan quản lý Nhà nước, cụ thể NHNN, đã không đánh giá được tác động chính sách của mình lên vàng trang sức, loại vàng có nhiều người dân bị ảnh hưởng. Tập quán của người Việt Nam là khi các đôi thanh niên làm đám cưới thường có đôi nhẫn cưới, bông tai, vòng đeo cổ… việc này đã bị ảnh hưởng. Mặc dù trong 3 tháng qua chúng ta quản lý vàng miếng tương đối tốt và đã góp phần huy động được lượng tiền tương đương 3 tỷ USD đưa ra thị trường.
Mới đây, tác giả Nguyễn Minh (NHNN) có bài phân tích rõ hơn về văn bản pháp lý này.
Ai hưởng giá chênh?
Phân tích về việc ai thiệt ai lợi trong việc chênh giá vàng có vẻ như đang giống chuyện lãi suất huy động và lãi suất cho vay. Khi người dân và một số doanh nghiệp có tiền gửi ngân hàng được hưởng lãi suất cao (nhất là gửi ở các NHTM lách trần lãi suất huy động) thì khách hàng vay cá nhân và nhiều doanh nghiệp khác phải đi vay ngân hàng với mức lãi suất cao. Nếu sòng phẳng ra thì chính người gửi tiền (trong đó có cả doanh nghiệp) cũng đã “góp phần” đẩy lãi suất cho vay cao.
Trong trường hợp này người gửi không kêu, người vay kêu. Tương tự như vậy ở thị trường vàng. Việc các TCTD vừa qua mua 60,1 tấn vàng (đương nhiên là phải theo giá thị trường) thì người lợi từ giá cao này là người có vàng (người dân và nhà đầu tư), người thiệt chủ yếu là các NHTM (đã chót bán vàng của người gửi trước đây), điển hình như NHTMCP Á Châu (ACB) lỗ 1.251 tỷ đồng từ kinh doanh vàng trong quý 3/2012. Lực mua từ ACB cùng với một số ngân hàng khác là một trong những nguyên nhân chính khiến giá vàng trong nước giữ mức chênh lệch cao so với giá thế giới trong đợt biến động vài tháng qua.
Việc người dân và một số nhà đầu tư đã bán cho ngân hàng 60,1 tấn vàng, các ngân hàng đã trả tiền trị giá khoảng 70.000 tỷ đồng Việt Nam (tương đương 3,3 tỷ USD) cũng có nghĩa là số tiền này đã được đưa vào lưu thông/hoặc gửi lại ngân hàng. Việc cho rằng ngân hàng mua vàng rồi trả vàng cho người gửi đâu có thay đổi tổng số vàng huy động cũng đúng, nhưng việc trả cho người gửi có thể dưới hai hình thức (vàng vật chất và giá trị tiền tương đương vàng). Điều này khác với việc một số chuyên gia nói rằng vàng vẫn là tài sản “chết” chưa cách nào huy động được.
Bình ổn thị trường không phải bình ổn giá
Đang có nhiều ý kiến đòi NHNN phải có trách nhiệm bình ổn giá vàng, điều này có cần thiết không và đó có phải là trách nhiệm của NHNN không? Cần phải xem luật. Theo Luật Giá, các quy định về danh mục hàng hóa, dịch vụ thiết yếu cần thiết đến vai trò bình ổn của Nhà nước thì vàng không thuộc diện cần phải thực hiện bình ổn giá. Tuy nhiên, với trách nhiệm quản lý nhà nước thì khi giá vàng có biến động bất thường; khi mặt bằng giá biến động ảnh hưởng đến ổn định kinh tế - xã hội, NHNN phải có các biện pháp can thiệp bình ổn thị trường vàng.
Nghị định 24 giao cho NHNN thực hiện can thiệp bình ổn thị trường vàng thông qua các hoạt động: xuất khẩu, nhập khẩu vàng nguyên liệu; tổ chức, quản lý sản xuất vàng miếng; mua, bán vàng miếng trên thị trường trong nước; huy động vàng…Vì vậy, nên đặt vấn đề đúng là NHNN có trách nhiệm bình ổn thị trường vàng chứ không phải bình ổn giá vàng. Hiện nay có ý kiến cho rằng việc chưa liên thông giá vàng trong nước với quốc tế là mâu thuẫn với Nghị quyết Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2013. Về lâu dài thì giá vàng trong nước phải liên thông với giá vàng quốc tế, thu hẹp khoảng cách giữa giá trong nước và giá quốc tế ở mức độ hợp lý là mục tiêu hướng đến trong chính sách quản lý thị trường vàng của NHNN.
Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, muốn liên thông được phải xuất dự trữ ngoại hối của Nhà nước ra để nhập khẩu vàng nguyên liệu về để sản xuất vàng miếng, giải pháp này trong điều kiện lượng dự trữ ngoại tệ còn mỏng như hiện nay là chưa phù hợp. Dự trữ ngoại hối còn để dành cho những mục đích thiết yếu khác của quốc gia. Vì vậy, NHNN cần có các giải pháp khác để dần tiến tới cho giá vàng trong nước liên thông với giá vàng quốc tế, và những biện pháp này cũng cần có thời gian.
Nghị định 24 không mâu thuẫn với Luật Doanh nghiệp
Theo tác giả Nguyễn Minh, gần đây một số ý kiến cho rằng một số nội dung Nghị định 24 mâu thuẫn với Luật Doanh nghiệp, rằng Luật Doanh nghiệp công nhận sự tồn tại lâu dài và phát triển của mọi loại hình doanh nghiệp, rằng đặc thù kinh doanh vàng miếng là không cần phải có sự khác biệt giữa doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp nhỏ...
Tuy nhiên, những ý kiến này là chưa đầy đủ. Luật Doanh nghiệp cũng còn có những quy định về những ngành, nghề kinh doanh có điều kiện do Chính phủ công bố.Ví dụ, kinh doanh bất động sản phải có vốn pháp định 6 tỷ đồng, dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài: 5 tỷ đồng... Nghị định 24 quy định hoạt động kinh doanh mua bán vàng miếng là hoạt động kinh doanh có điều kiện, có cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh.
Việc thị trường vàng Việt Nam đã từng có 12.000 doanh nghiệp, cửa hàng nhỏ lẻ kinh doanh vàng miếng không có điều kiện kinh doanh là rất rủi ro cho người tiêu dùng và bản thân doanh nghiệp. Chính Hiệp hội Kinh doanh vàng Việt Nam trong tờ trình Chính phủ đầu năm 2011 cũng kiến nghị nên quy định điều kiện kinh doanh vàng miếng, nhằm góp phần giảm bớt các cửa hàng, hộ kinh doanh vàng cá thể. Các điều kiện cụ thể được Hiệp hội kiến nghị áp dụng là doanh nghiệp phải có giấy phép đăng ký kinh doanh, có mức vốn pháp định tối thiểu 30 tỷ đồng và sổ thuế phải nộp trong 2 năm gần nhất trước khi cấp phép phải đạt từ 500 triệu đồng /năm trở lên.
Việc không cấp giấy phép cho các doanh nghiệp, cửa hàng nhỏ lẻ không đủ điều kiện kinh doanh vàng miếng là không trái với Luật Doanh nghiệp. Bản thân các doanh nghiệp, cửa hàng này nên chuyển sang hoạt động sản xuất, gia công, kinh doanh mua bán vàng trang sức, mỹ nghệ (nếu đủ điều kiện) hoặc chuyển các ngành, nghề khác, chứ không thể nói là việc không cấp giấy phép kinh doanh vàng miếng cho các doanh nghiệp, cửa hàng này đồng nghĩa với việc họ sẽ mất công ăn việc làm của lao động, và trở thành kinh doanh bất hợp pháp.
Ngân hàng trung ương Ấn Độ vừa có thông báo chính thức trên website ngày 19/11/2012, yêu cầu các ngân hàng nước này không cho vay với mục đích mua vàng vật chất như trang sức, vàng xu, vàng thanh hay các sản phẩm tài chính có liên quan đến vàng như đầu tư vào quỹ tín thác. Đây chính là nguyên nhân mà Ngân hàng Nhà nước Việt Nam lo ngại mức độ gia tăng “vàng hóa” trong nền kinh tế, và để ngăn chặn tình trạng trước khi quá muộn, cơ quan này tạm thời sử dụng một số công cụ hành chính để bình ổn thị trường. Có thể bước đi của tiến trình chống “vàng hóa” đang nhanh hơn sự chuyển biến tâm lý, nhận thức của người dân, nhưng mục tiêu bình ổn thị trường vàng của Nghị định 24 là đúng đắn và cần thiết./.