Nhận lời mời của Thủ tướng nước CHXHCN Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng, Ủy viên thường vụ Bộ chính trị khóa 18, Thủ tướng Quốc vụ viện nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Lý Khắc Cường sẽ thăm chính thức Việt Nam từ ngày 13-15/10/2013.

Đây là chuyến thăm chính thức đầu tiên của lãnh đạo cấp cao Trung Quốc tới Việt Nam kể từ khi Trung Quốc thực hiện cuộc chuyển giao ban lãnh đạo mới vào đầu năm nay.

cuong1.jpg
Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường

Chuyến thăm có ý nghĩa rất quan trọng trong việc tăng cường củng cố sự tin cậy chính trị, thúc đẩy quan hệ hợp tác đối tác chiến lược toàn diện giữa hai nước.

Kể từ khi bình thường hóa quan hệ năm 1991 đến nay, quan hệ hợp tác hữu nghị Việt Nam-Trung Quốc phát triển nhanh chóng và sâu rộng trên tất cả các lĩnh vực, mang lại lợi ích thiết thực cho cả hai bên.

Về quan hệ chính trị

Từ đầu năm 2003 tới nay, các hoạt động trao đổi đoàn và tiếp xúc cấp cao liên tục được duy trì, trong đó đáng chú ý có cuộc điện đàm thông qua đường dây nóng giữa Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, chuyến thăm cấp nhà nước của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng dự Hội chợ Trung Quốc-ASEAN lần thứ 10 tại Nam Ninh.

Hai bên cũng tổ chức thành công Phiên họp lần thứ 6 Ủy ban Chỉ đạo hợp tác song phương Việt-Trung với những kết quả cụ thể. Hai bên cũng đã ký kết Chương trình hành động giữa Chính phủ hai nước về việc triển khai mối quan hệ hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc.

Hợp tác giữa hai Đảng cũng được đẩy mạnh. Hai bên duy trì trao đổi đoàn và thiết lập cơ chế hợp tác, giao lưu giữa các ban Đảng, tổ chức 9 cuộc hội thảo về lý luận giữa hai Đảng.

Quan hệ giữa các ngành quan trọng như Ngoại giao, An ninh, Quốc phòng được đẩy mạnh. Hai bên tiếp tục triển khai có hiệu quả các thỏa thuận văn bản hợp tác giữa hai Bộ Ngoại giao (ký tháng 12/2002), hai Bộ Công an (ký tháng 9/2003), hai Bộ Quốc phòng (ký tháng 10/2003)...

Ngoài ra, quan hệ giữa các địa phương, giao lưu nhân dân giữa hai nước cũng không ngừng phát triển.

Quan hệ kinh tế

Về thương mại: Từ năm 2004 đến nay, Trung Quốc liên tục là bạn hàng thương mại lớn nhất của Việt Nam. Năm 2012, tổng kim ngạch thương mại hai nước đạt 41,18 tỷ USD. Cơ cấu hàng xuất khẩu của ta sang Trung Quốc đang có những chuyển biến tích cực.

Từ năm 2011 đến nay, tỉ trọng nhóm hàng công nghiệp trong tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu sang Trung Quốc đang có xu hướng tăng dần (trên 30%, trong khi trước đây chỉ 10%), vượt qua nhóm hàng truyền thống nông, lâm, thủy sản. Tuy vậy, trong năm 2012, các mặt hàng nông sản vẫn có ưu thế, xuất khẩu gạo tăng đột biến 290% đạt 898 triệu USD với 2,08 triệu tấn.

Lãnh đạo hai nước đã dành nhiều thời gian trao đổi các biện pháp nhằm thực hiện mục tiêu duy trì đà tăng trưởng kim ngạch song phương đi đối với cán cân thương mại.

Hai bên đã ký “Qui hoạch phát triển 5 năm hợp tác kinh tế thương mại Việt-Trung giai đoạn 2012-2016” nhân dịp Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm Trung Quốc (tháng10/2011), ký Bản ghi nhớ Danh mục các dự án hợp tác trọng điểm kèm Quy hoạch vào dịp Phiên họp lần 6 ủy ban Chỉ đạo hợp tác song phương Việt Nam – Trung Quốc (4/2013).

Về hợp tác đầu tư: Quan hệ hợp tác đầu tư có bước phát triển mới, tính đến hết tháng 8/2013, Trung Quốc có 934 dự án đầu tư tại Việt Nam, tổng vốn đăng ký 9,74 tỉ USD, đứng thứ 13/101 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư tại Việt Nam.

Trong những năm qua, Trung Quốc đã không ngừng tăng quy mô ứng dụng ưu đãi dành cho Việt Nam. Đến nay, Trung Quốc đã cho ta vay 1,6 tỉ USD ưu đãi tập trung vào lĩnh vực công nghiệp, khai khoáng, đường sắt, năng lượng, dệt may, hóa chất… Ngoài tín dụng ưu đãi, Chính phủ Trung Quốc còn hỗ trợ Việt Nam nhiều khoản viện trợ không hoàn lại dùng vào việc tổ chức các đoàn tham quan, khảo sát kinh nghiệm phát triển kinh tế xã hội ở Trung Quốc; giao lưu thanh thiếu niên; đầu tư trang thiết bị cho một số bệnh viện tại Việt Nam; xây dựng khu nhà ở Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.

Hợp tác liên quan tới biên giới lãnh thổ

Sau khi bình thường hóa quan hệ, năm 1993, hai bên đã ký thỏa thuận về các nguyên tắc cơ bản giải quyết các vấn đề biên giới lãnh thổ. Hai bên cũng đã tiến hành đàm phán về 3 vấn đề: biên giới trên đất liền, phân định Vịnh Bắc Bộ và vấn đề trên biển (Biển Đông).

Đến nay, hai bên đã ký Hiệp định về biên giới trên đất liền (1999); Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ (2000); Hiệp định hợp tác nghề các Vịnh Bắc Bộ (2000); Nghị định thư hợp tác nghề cá Vịnh Bắc Bộ (2004).

Về biên giới trên bộ: Ngày 31/12/2008, hai bên đã hoàn thành công tác phân giới cắm mốc đúng thời hạn Lãnh đạo cao cấp hai nước đã thỏa thuận. Hai bên đã công bố Nghị định thư phân giới cắm mốc, Hiệp định về quy chế quản lý biên giới và Hiệp định về cửa khẩu và quy chế quản lý cửa khẩu có hiệu lực từ 14/7/2010. Hai bên đang tiến hành đàm phán để sớm ký Hiệp định về quy chế tàu thuyền đi lại tự do tại khu vực cửa sông Bắc Luân và Hiệp định về hợp tác và khai thác phát triển du lịch khu vực thác Bản Giốc.

Về Vịnh Bắc Bộ
: Hai Hiệp định về Vịnh Bắc Bộ (Hiệp định phân định vịnh Bắc Bộ và Hiệp định hợp tác nghề cá Vịnh Bắc Bộ) được triển khai tương đối thuận lợi, công tác quản lý đánh bắt và bảo vệ nguồn lợi dần đi vào nề nếp, hạn chế tối đa các xung đột có thể nảy sinh.

Hai bên thỏa thuận tiếp tục thực hiên tốt hai Hiệp định này, cũng như thực hiện tốt công tác kiểm tra liên hợp, điều tra liên hợp nguồn thủy sản trong vùng đánh cá chung và tuần tra chung giữa quân đội hai nước ở Vịnh Bắc Bộ, đẩy nhanh việc thực hiện “Thỏa thuận khung về hợp tác dầu khí trong vùng thỏa thuận tại Vịnh Bắc Bộ”.

Hai bên đã tổ chức 3 vòng đàm phán về hoạt động của tàu cá Việt Nam – Trung Quốc trong vùng đặc quyền kinh tế của hai nước tại Vịnh Bắc Bộ sau khi vùng dàn xếp quá độ đã hết hiệu lực

Về vấn đề biển Đông: Lãnh đạo cấp cao hai nước đã nhiều lần trao đổi về vấn đề Biển Đông. Năm 2011, hai bên đã ký kết thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam – Trung Quốc, góp phần định hướng cho việc giải quyết vấn đề Biển Đông.

Theo đó, hai bên cần kiên trì giải quyết hòa bình vấn đề Biển Đông trên cơ sở luật pháp quốc tế, Công ước Liên hợp Quốc về Luật biển 1982 và tinh thần DOC. Trên cơ sở thỏa thuận, hai bên đã thành lập cơ chế đàm phán cấp chuyên viên về khu vực ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ và cơ chế dàm phán cấp chuyên viên về hợp tác trong các lĩnh vực ít nhạy cảm trên biển.

Đến nay, sau 4 vòng đàm phán về khu vực ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ và 4 vòng đàm phán về hợp tác trong các lĩnh vực ít nhạy cảm trên biển, hai bên đã đạt được một số kết quả ban đầu: nhất trí thành lập Tổ chuyên gia kỹ thuật khảo sát chung phục vụ công tác phân định và hợp tác cùng phát triển tại khu vực ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ; nhất trí chọn ra 3 dự án trong lĩnh vực ít nhạy cảm trên biển để ưu tiên nghiên cứu và triển khai thí điểm trước, bao gồm: Dự án về hợp tác trao đổi, nghiên cứu về quản lý môi trường biển và hải đảo vùng Vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc, và Dự án về nghiên cứu so sánh trầm tích thời kỳ Holocenne khu vự vực châu thổ sông Hồng và châu thổ sông Trường Giang, và Dự án về phối hợp tìm kiếm cứu nạn trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc.

Trong khuôn khổ đa phương, ASEAN (trong đó có Việt Nam) và Trung Quốc đã ký Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC), Quy tắc hướng dẫn thực hiện DOC và Tuyên bố chung ASEAN-Trung Quốc kỷ niệm 10 năm ký kết DOC.

ASEAN hiện đã sẵn sang và đang tích cực thúc đẩy đàm phán với phía Trung Quốc về việc xây dựng Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (DOC). Đầu tháng 9/2013, ASEAN –Trung Quốc lần đầu tiên tham vấn chính thức ở cấp SOM về COC.

Trong chuyến thăm Việt Nam của Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường, hai bên dự kiến sẽ ký kết nhiều văn bản hợp tác, Tuyên bố chung “Làm sâu sắc hơn nữa quan hệ hợp tác chiến lược Việt Nam-Trung Quốc trong thời kỳ mới”. Đây là dấu ấn quan trọng trong bối cảnh hai nước mong muốn tăng cường hợp tác chiến lược toàn diện, góp phần vào hòa bình, ổn định, phát triển của khu vực và thế giới./.