Hiến pháp cũng quy định Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm, bảo vệ những quyền đó thực hiện một cách tốt nhất. Để làm rõ về nội dung này, phóng viên Đài TNVN đã phỏng vấn ông Đinh Xuân Thảo, Viện trưởng Viện nghiên cứu lập pháp của Quốc hội.
Ông Đinh Xuân Thảo |
Trước khi đi vào chương 2 quy định về quyền con người và quyền nghĩa vụ cơ bản của công dân thì có 3 điều quy định mang tính là nguyên tắc về cách thức thể hiện cũng như nội hàm của quyền con người và quyền nghĩa vụ cơ bản của công dân.
Trước hết, mở đầu từ điều 14 chương 2 đã khẳng định: “Ở nước CHXHCN Việt Nam, quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế - văn hóa – xã hội được thừa nhận, tôn trọng và bảo vệ”. Và cũng tại điều 14 ở đoạn 2, khoản 2 nói rõ quyền công dân cơ bản chỉ có thể bị hạn chế trong trường hợp đặc biệt cần thiết, mà việc hạn chế đó phải hạn chế bằng luật. Thứ 2 là trong trường hợp vì những lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, lợi ích công cộng, sức khỏe cộng đồng, đạo đức xã hội… Đó là những lý do đặc biệt có thể hạn chế quyền con người. Những thay đổi mới so với Hiến pháp 1992 về việc hạn chế quyền con người là phải bằng luật, chứ không thể bằng văn bản dưới luật.
Ví dụ như quyền tự do biểu tình, khi Hiến pháp đã quy định biểu tình là một quyền tự do của người dân, thế thì việc người dân thực hiện biểu tình như thế nào, theo trình tự nào? Phải đăng ký với ai? Phải xin phép ai? Phải tiến hành trình tự thủ tục ra sao thì việc đó phải theo quy định của pháp luật. Nghĩa là với văn bản dưới luật cũng có thể bằng 1 nghị định, 1 pháp lệnh của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, nghị định của Chính phủ có thể hướng dẫn cho ta cách thức đi biểu tình. Nhưng việc cấm không cho người ta đi biểu tình thì chỉ có bạo lực chứ không thể chỉ bằng một nghị định cấm người ta đi biểu tình. Quyền đi liền với nghĩa vụ, và để đảm bảo quyền cho người này thì tất nhiên nghĩa vụ của người kia, nghĩa là khi thực hiện quyền của mình thì cũng không được lạm dùng quyền làm ảnh hưởng đến quyền của người khác.
Tiếp nữa, đi vào các quyền cụ thể như là quyền có quốc tịch. Đây cũng là một quyền quan trọng mà trước đây chúng ta chưa quy định rõ. Hiện nay, trong quan hệ hội nhập ngày càng sâu rộng thì người Việt Nam định cư ở nước ngoài và người nước ngoài sống ở Việt Nam, vấn đề quốc tịch được xác định tại điều 17 là công dân CHXHCN Việt Nam là người quốc tịch Việt Nam, bởi vì quốc tịch là điều quan trọng, nó thể hiện chủ quyền, quyền lực của nhà nước, quan hệ giữa người dân với nhà nước. Khái niệm quốc tịch là tình trạng của cá nhân thuộc về nhà nước, mà quyền lực của nhà nước bao trùm lên cá nhân đó, tạo cho họ những quyền và nghĩa vụ nhất định.
Thứ hai, ở đây có 1 điều quy định liên quan đến quyền sống. Tức là mọi người đều có quyền sống, Nhà nước thừa nhận quyền sống của mỗi người như 1 quyền tự nhiên, là một quyền rất là quan trọng gắn bó với mỗi con người để từ đó để thấy quyền sống là 1 khắc thể thiêng liêng, rất là quan trọng mà pháp luật phải bảo vệ, phải tôn trọng. Thế thì việc tước đoạt sinh mạng sống của mỗi người là chỉ theo quy định của luật, và cụ thể ở Việt Nam thì chỉ có bộ luật hình sự trong đó có quy định tội có mức án tử hình thì mới có thể tước đoạt mạng sống trong trường hợp đó thôi.
Sau đó nữa đến những quyền chính trị như: quyền tham gia bầu cử, ứng cử tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội thì đó cũng là những quyền rất quan trọng. Trong Hiến pháp lần này quy định rất rõ, mọi người đều có quyền tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, có quyền bình đẳng trước pháp luật. Vấn đề ở đây là quyền thì nhiều nhưng để thực hiện nó ra sao mới quan trọng, thể hiện trách nhiệm của nhà nước. Khi mà xây dựng dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 thì cũng đã đặt ra nhiều luồng ý kiến, nói rằng đặt trách nhiệm của ai lên đầu, là nhà nước, hay là gia đình, xã hội hay từng cá nhân…Khi nói đến Hiến pháp, nói đến quan hệ giữa công dân và nhà nước thì ở đây nhân dân trao quyền lực cho nhà nước, thì trước hết mọi trách nhiệm nhà nước phải đặt lên đầu tiên, nhà nước phải bảo đảm, bảo vệ, tôn trọng quyền của mỗi công dân. Nghĩa là từ 1/1/2014, Hiến pháp này có hiệu lực thì những quyền mà Hiến pháp thừa nhận đối với con người, mỗi công dân, thì mặc nhiên nó có giá trị trên thực tế cho đến giờ phút này.
Lần này, ở điều 25 của Hiến pháp đã quy định rất rõ: Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp lập hội biểu tình và việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Nội dung “quy định” ở đây là để những quyền trên là quyền mặc nhiên, không ai có quyền hạn chế, và chỉ có thể hạn chế trong những lý do: Quốc phòng, an ninh quốc gia,…(đã nêu ở trên).
Bây giờ để mà thực hiện những quyền này, trong Hiến pháp cũng xác định bằng quy định và pháp luật, ngay khi Hiến pháp có hiệu lực, trong kế hoạch triển khai thi hành Hiến pháp, Ủy bản Thường vụ Quốc hội đã đưa ra một kế hoạch với ưu tiên đầu tiên là các luật liên quan về tổ chức để sửa đổi như: Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức tòa án nhân dân, Luật Tổ chức kiểm sát nhân dân,…thì tiếp theo đó là các luật về quyền công dân và trước hết là tập trung vào những quyền về tự do báo chí, tự do hội họp, lập hội biểu tình. Và cứ mỗi nội dung này sẽ có một điều luật, dự kiến những điều luật đó đã được đưa vào trong chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội khóa 13. Nghĩa là từ nay đến năm 2016, phải cố gắng để sớm ban hành những điều luật này vào trong thực tế chứ không để như tình trạng những quy định của Hiến pháp 1992 qua 20 năm thi hành hiến pháp mà vẫn không triển khai thực hiện được. Vậy đây là nội dung rất quan trọng, và vấn đề bây giờ là để tổ chức thực hiện như thế nào cần phải có những quy định của những văn bản luật và dưới luật cụ thể để hướng dẫn cách thức thực hiện.
Rõ ràng là những nguyên tắc cơ bản trong những điều luật quốc tế về nhân quyền như: quyền sống, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, nguyên tắc suy đoán người vô tội… Những nội dung liên quan đến quyền tự do của con người đã đều được đưa vào chương 2, tất nhiên là chỉ chọn những quyền cơ bản nhất…