Việc nâng cao tình “hữu ái” giữa Nhật Bản và Việt Nam sẽ tạo ra môi trường cho hợp tác trong khu vực. Cựu Thủ tướng Nhật Bản Yukio Hatoyama đã khẳng định như vậy trong cuộc phỏng vấn với phóng viên Đài TNVN.
![]() |
Cựu Thủ tướng Nhật Bản Yukio Hatoyama |
Tôi vốn dĩ rất thích nghe các bài hát của Nhật Bản nhưng khi được nghe các bài hát Việt Nam tôi thấy rằng có rất nhiều bài hát Việt Nam rất hay và dễ đi vào lòng người dân Nhật. Cả các điệu múa cũng vậy. Quả thực, văn hóa hai nước rất gần gũi nhau.
Tôi cũng có dịp đi thăm một số doanh nghiệp Nhật Bản đầu tư vào Việt Nam. Tôi được nghe rất nhiều lời khen tặng đối với sự cần cù của người Việt Nam. Người Nhật thường được khen rằng rất cần cù nhưng tôi thấy rằng người Việt Nam còn cần cù hơn cả người Nhật. Tôi có thể nói rằng xét trên nhiều ý nghĩa, người Việt Nam và người Nhật Bản là những đối tác có thể hợp tác với nhau, có thể tin cậy lẫn nhau về lâu về dài.
Sau khi không làm Thủ tướng nữa, tôi đã có khoảng 5 lần đến Việt Nam và gặp các nhà lãnh đạo Việt Nam. Tôi cũng có dịp diện kiến cả Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khi các vị đến thăm Nhật Bản. Lần này, tôi cũng sẽ gặp và nói chuyện với Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
Việc xây dựng được mối quan hệ tin cậy lẫn nhau giữa những nhà lãnh đạo quả là điều đáng giá đối với Nhật Bản. Do đó, điều tôi cảm thấy mình đã làm tốt nhất chính là việc xây dựng được mối quan hệ tin cậy này.
Nhân đây, tôi cũng muốn nói đến sự kiện 11/3 cách đây hơn 2 năm khi Nhật Bản bị động đất và sóng thần tấn công và gặp phải sự cố hạt nhân. Khi đó, người dân Việt Nam đã dành cho Nhật Bản những tình cảm thật ấm áp. Như vậy, bên cạnh quan hệ tin cậy giữa những nhà lãnh đạo, hai nước chúng ta còn xây dựng được tình cảm ấm áp giữa người dân hai nước. Đó là điều đáng giá thứ hai.
Sau sự cố hạt nhân, Nhật Bản phải xem xét lại nhiều mặt chính sách năng lượng hạt nhân của mình để nâng cao hơn nữa độ an toàn. Trong tình hình đó, Việt Nam vẫn tiếp tục tin tưởng điện hạt nhân của Nhật Bản. Đó cũng là điếu đáng quý đối với Nhật Bản.
Còn về điều tôi tiếp tục muốn làm để đóng góp cho quan hệ hai nước chính là giáo dục. Nhật Bản sau chiến tranh đã nhanh chóng phát triển thành một nước công nghiệp. Có được điều này là nhờ vào hệ thống trường đào tạo nghề chuyên nghiệp do nhà nước thành lập.
Các em học sinh tốt nghiệp cấp II sẽ học về kỹ thuật trong 5 năm tại trường này. Chính nhờ những ngôi trường như vậy mà trình độ kỹ thuật công nghệ của Nhật Bản đã được nâng cao đáng kể. Có thể nói những ngôi trường như vậy đã tạo ra một đội ngũ kỹ thuật viên trẻ lành nghề có khả năng đáp ứng ngay công việc.
Tôi nghĩ rằng, điều cần thiết cho sự phát triển của Việt Nam hiện nay là nhanh chóng đào tạo thật nhiều những kỹ thuật viên trẻ lành nghề có khả năng đáp ứng ngay công việc như vậy. Để làm được điều đó, tôi mong muốn Việt Nam áp dụng hệ thống trường đào tạo nghề chuyên nghiệp của Nhật Bản. Tôi sẽ đề nghị với các nhà lãnh đạo Việt Nam như Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
Mặc dù mới chỉ vừa bắt đầu nhưng trong năm nay chúng tôi đã làm việc với tỉnh Hà Nam và được biết tỉnh Hà Nam rất mong muốn có một trường đào tạo nghề như của Nhật. Các nhà lãnh đạo Việt Nam đang rất quan tâm đến chủ đề này. Do đó, chúng tôi sẽ phải thúc đẩy nhanh chóng ý tưởng này.
Một điều khác mà Chủ tịch nước Trương Tấn Sang rất quan tâm là vấn đề công nghệ trong lĩnh vực nông nghiệp của Nhật Bản. Khác với Mỹ với nền nông nghiệp quy mô lớn, cả Nhật Bản và Việt Nam có rất nhiều điểm chung với một nền nông nghiệp quy mô nhỏ. Tôi tính đến việc áp dụng mô hình nông nghiệp của Nhật Bản vào Việt Nam bao gồm cả hệ thống lưu thông cũng như việc ứng dụng công nghệ IT trong nông nghiệp.
Việc hình thành cộng đồng chung ASEAN đang tiến triển thuận lợi. Có lẽ sẽ khá khó khăn khi ngay từ đầu các nước đề cập đến vấn đề an ninh. Do đó, để làm được điều đó, chúng ta nên bắt đầu từ các lĩnh vực như giáo dục, văn hóa, kinh tế. Trong bối cảnh như vậy, một mối quan hệ hợp tác ngày càng sâu rộng giữa Việt Nam và Nhật Bản sẽ có ảnh hưởng lớn đến toàn bộ khu vực.
Trong khi đó, bình đẳng là quan điểm có vai trò hết sức quan trọng trong tư tưởng “hữu ái”. Mọi người ai cũng có quyền được sống và cơ hội cuộc sống ngang nhau. Điều đó thật lý tưởng. Tuy nhiên, nếu bình đẳng phát triển tới mức thái quá, tức là cho dù ai đó có nỗ lực đến đâu mà vẫn ngang bằng với người khác thì điều này cũng làm triệt tiêu ý chí vươn lên và nỗ lực của con người.
Điều mấu chốt ở đây là phải làm sao để cả hai yếu tố này không đi quá đà. Cần phải có một cái phanh để hãm cả hai thứ đó và liên kết chặt chẽ hai thái cực này lại với nhau trong một chỉnh thể thống nhất, giúp nó vận hành một cách thuận lợi.
Trong thế giới hiện đại, ta có thể liên tưởng đến hai khái niệm tự lập và cộng sinh cùng song hành tồn tại. Mỗi con người trong một tập thể đặt cho mình một ý chí luôn nỗ lực hết mình và nếu không có ý chí tự lập thì cá nhân đó khó có thể tiến bộ được.
Tuy nhiên, ý chí tự lập thôi chưa đủ vì một cá nhân không thể làm được bất cứ việc gì. Người nông dân không thể một mình trồng lúa, một ngư dân không thể tự đánh bắt cá hay một cái xe hơi không thể do một người làm ra. Trong một xã hội mà tất cả mọi người đều cùng nhau làm việc hăng say, bản thân mỗi con người sẽ có thể phát huy được tất cả khả năng của mình. Điều đó chẳng phải là thực sự lý tưởng hay sao? Tất cả mọi người đều khác nhau và không thể nói rằng “không được phép có sự khác biệt”, mà “hãy cùng sống trong sự khác biệt”. Như vậy là mọi người sống trong một xã hội cùng nhau nỗ lực, cùng nhau làm việc và cùng hưởng thụ niềm hạnh phúc. Đó chính là tư tưởng cốt lõi của cụm từ “hữu ái” mà tôi đề xướng.
Cho đến nay, thông qua các dự án ODA, Nhật Bản đã giúp đỡ Việt Nam phát triển. Nhưng tôi cho rằng từ nay về sau hai nước cần chuyển sang hướng bổ sung cho nhau để cùng hợp tác phát triển. Với tình hữu ái đó, hai nước sẽ ngày càng phát triển hơn nữa. Tôi nghĩ rằng, sắp đến lúc hai nước bước vào giai đoạn mới với tình hữu ái được nâng lên tầm cao mới.