40 năm sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân của chúng ta có bước trưởng thành vượt bậc về mọi mặt.

Tuy nhiên, có một thực tế trong công tác dân số là quy mô và tốc độ dân số tăng quá nhanh, ảnh hưởng xấu đến phát triển kinh tế - xã hội và cải thiện chất lượng cuộc sống của nhân dân.

ti_le_dan_so_huvj.jpg
Tình trạng mất cân bằng giới tính đã ở mức nghiêm trọng và ngày càng lan rộng.

Đầu năm 1993, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VII) đã ban hành Nghị quyết số 04-NQ/TW về chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình (DS-KHHGĐ), đặt trọng tâm vào thực hiện kế hoạch hóa gia đình, mục tiêu giảm nhanh tốc độ tăng quy mô dân số.

Bộ Chính trị (khóa IX) ban hành Nghị quyết số 47-NQ/TW về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết 04-NQ/TW, đặt trọng tâm tiếp tục giải quyết vấn đề quy mô dân số, “từng bước nâng cao chất lượng dân số Việt Nam về thể chất, trí tuệ, cơ cấu”.

Tình hình công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình những năm qua

Chúng ta đã khống chế thành công tốc độ gia tăng dân số, sớm đạt và duy trì mức sinh thay thế.

Tốc độ tăng dân số cả nước giảm từ hơn 2% năm 1993 xuống còn 1,08% hiện nay.

Số dân tăng thêm bình quân mỗi năm từ 1,2 triệu người xuống 950.000 người. Quy mô dân số năm 2016 gần 93 triệu người.

Số con trung bình của một phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ giảm mạnh từ 3,7 năm 1992 xuống 2,1 năm 2006 - đạt mức sinh thay thế sớm 10 năm so với mục tiêu đề ra và duy trì cho đến nay.

Kết quả này đã tránh tăng khoảng 20 triệu người nếu không thực hiện kế hoạch hóa gia đình.

Tuy nhiên, mức sinh giữa các vùng còn chênh lệch đáng kể. Khu vực kinh tế xã hội nhiều khó khăn có mức sinh cao, có nơi rất cao. Một số vùng đô thị, kinh tế phát triển, mức sinh đã xuống thấp, có nơi thấp xa so với mức sinh thay thế.

Cơ cấu dân số chuyển dịch tích cực. Tỷ trọng dân số dưới 15 tuổi giảm mạnh từ 39,2% xuống 24,0%. Dân số trong độ tuổi lao động (15-64 tuổi) tăng từ 56,1% lên 68,4%. Dân số 65 tuổi trở lên tăng từ 4,7% lên 7,6%.

Nước ta bắt đầu bước vào thời kỳ “dân số vàng” từ năm 2007 và dự kiến đạt đỉnh cao vào khoảng năm 2020, và kéo dài khoảng 30 năm đến 40 năm, tối đa là 45 năm.

Tuy vậy, tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh tăng nhanh, đã ở mức nghiêm trọng và ngày càng lan rộng.

Nếu không có những biện pháp can thiệp quyết liệt, nước ta sẽ thiếu khoảng 2,3 – 4,3 triệu phụ nữ vào năm 2050, gây hệ lụy cho phát triển bền vững. Thiếu chủ động trong phát huy lợi thế của thời kỳ “dân số vàng”, chuẩn bị thích ứng với già hóa dân số.

Tuổi thọ trung bình của người Việt Nam tăng cao

Chất lượng dân số được cải thiện về nhiều mặt. Kết quả giảm sinh đã làm giảm đáng kể sức ép về số lượng học sinh các cấp. Trình độ dân trí và chất lượng nguồn nhân lực được cải thiện. Người dân tộc thiểu số, nhóm dân cư yếu thế được Nhà nước chăm lo, hỗ trợ tạo điều kiện tiếp cận bình đẳng trong giáo dục.

Tỷ lệ suy dinh dưỡng và tỷ suất tử vong trẻ em đã giảm 2/3. Tỷ số tử vong mẹ giảm 3/4 so với năm 1990. Mạng lưới tầm soát, chẩn đoán trước sinh và sơ sinh đã từng bước được triển khai ở tất cả các tỉnh, thành phố.

Tầm vóc thể lực của người Việt Nam có bước cải thiện. Từ năm 1993 đến nay, chiều cao trung bình của thanh niên Việt Nam tăng thêm 3cm, đạt 164cm ở nam và 153cm ở nữ.

Tuổi thọ trung bình tăng từ 65,5 tuổi năm 1993 lên 73,4 tuổi năm 2016, cao hơn các nước có cùng mức thu nhập bình quân đầu người.

Mặt hạn chế là chất lượng dân số chịu ảnh hưởng do người có điều kiện kinh tế khó khăn sinh nhiều con, trong khi người có điều kiện kinh tế khá giả lại sinh ít con.

Tỷ lệ tử vong bà mẹ, trẻ sơ sinh, trẻ dưới 5 tuổi, tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi còn cao, chênh lệch nhiều giữa các vùng, miền.

Tình trạng trẻ em thừa cân, rối nhiễu tâm trí, tự kỷ những năm gần đây có xu hướng gia tăng.

Tỷ lệ tầm soát trước sinh, sơ sinh còn thấp. Tầm vóc, thể lực của người Việt Nam chậm được cải thiện. Tuổi thọ bình quân tăng nhưng số năm trung bình sống khỏe mạnh chỉ đạt 64 tuổi.

Tình trạng tảo hôn, kết hôn cận huyết thống còn nhiều ở một số dân tộc ít người. Tỷ lệ người bị khuyết tật cao, chiếm 7,08% tổng dân số.

Phân bố dân số trên quy mô cả nước hợp lý hơn. Mật độ dân số tăng ở các vùng thưa dân (Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, ĐBSCL), và giảm ở vùng đông dân (DBSH).

Cùng với tiến trình đô thị hóa, công nghiệp hóa, dân số ở các đô thị, khu công nghiệp, khu kinh tế cơ học nhanh.

Tỷ lệ dân số đô thị tăng từ 20% năm 1993 lên 34,3% năm 2016. Thực hiện đưa dân đến sinh sống ổn định ở các tuyến biên giới, hải đảo, các khu vực trọng yếu về an ninh, quốc phòng.

Mặt hạn chế là phân bố dân số, nhất là quản lý di cư còn nhiều bất cập. Hạ tầng, chính sách xã hội ở nhiều đô thị, khu công nghiệp chưa đáp ứng kịp tốc độ tăng dân số cơ học.

Di dân tự do từ miền núi phía Bắc vào Tây Nguyên diễn biến phức tạp gây khó khăn cho cả nơi đến và nơi đi.

Nhiều người dân chưa được bảo đảm tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản. Một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số bản địa ở Tây Nguyên phải di chuyển vào khu vực sâu hơn.

Điều kiện sản xuất, sinh hoạt, các thiết chế văn hóa, giáo dục, y tế ở một số vùng đồng bào dân tộc, đặc biệt là khu vực biên giới phía Bắc còn nhiều khó khăn.

Tình trạng người nước ngoài vào sinh sống chưa được quản lý ở nước ta có chiều hướng gia tăng.

Công tác tuyên truyền, giáo dục dân số được triển khai sâu rộng, thường xuyên ở tất cả các cấp.

Đội ngũ cán bộ chuyên trách, cộng tác viên, tuyên truyền viên “đi từng ngõ, gõ từng nhà, rà từng đối tượng” kiên trì, thường xuyên, liên tục đã đưa thông điệp “mỗi cặp vợ chồng chỉ có 1-2 con” lan tỏa, thấm sâu trong toàn xã hội.

Thực hiện kế hoạch hóa gia đình được lồng ghép trong tất cả các chương trình phát triển kinh tế - xã hội và được coi là một tiêu chí quan trọng trong thi đua, khen thưởng.

Tuy nhiên, hiệu quả công tác truyền thông, giáo dục chưa đồng đều giữa các khu vực, giữa các nhóm đối tượng.

Tư tưởng trọng nam hơn nữ ở nhiều vùng còn phổ biến. Truyền thông, giáo dục về sức khỏe sinh sản vị thành niên, phòng chống xâm hại tình dục trẻ em hiệu quả chưa cao.

Giáo dục giới tính chưa đáp ứng yêu cầu cung cấp kiến thức cần thiết cho giới trẻ.

Nội dung truyền thông mới chủ yếu tập trung vào kế hoạch hóa gia đình, chưa chú ý các yếu tố của dân số phát triển. Thời gian gần đây, công tác truyền thông có sự suy giảm cả về cường độ và hiệu quả.

Mạng lưới cung cấp dịch vụ kế hoạch hóa gia đình được phát triển rộng khắp, gần dân. Nhiều dịch vụ đã được đưa đến tận nơi người có nhu cầu. Các phương tiện tránh thai ngày càng đa dạng, thuận tiện, an toàn.

Việt Nam đã tự sản xuất được các phương tiện tránh thai chủ yếu. Việt Nam được ghi nhận đã đạt được tiến bộ lớn về công nghệ hỗ trợ sinh sản, một số công nghệ ngang tầm thế giới.

Dịch vụ chăm sóc người cao tuổi, cũng như các dịch vụ phục vụ nhu cầu của người cao tuổi bước đầu phát triển. Đã xuất hiện một số mô hình hợp tác công tư hoạt động hiệu quả.

Nhưng mặt hạn chế là tình trạng mang thai ngoài ý muốn, nhất là ở tuổi vị thành niên và thanh niên còn nhiều và có xu hướng tăng, để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng.

Quản lý hoạt động phá thai ở các cơ sở y tế cá nhân còn nhiều bất cập. Chẩn đoán, lựa chọn giới tính thai nhi vẫn còn phổ biến. Ngoài các dịch vụ liên quan tới sức khỏe sinh sản, các dịch vụ dân số khác chưa được quan tâm đúng mức.

Tổ chức bộ máy làm công tác DS-KHHGĐ đã được tăng cường, củng cố, kiện toàn từ Trung ương đến tận thôn, bản.

Đội ngũ cán bộ làm công tác dân số được tăng cường cơ bản đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.

Đặc biệt đội ngũ cộng tác viên dân số ở cơ sở rất tâm huyết, tích cực, hoạt động hiệu quả, góp phần quyết định cho thành công của công tác DS-KHHGĐ. Phối hợp công tác với Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội nghề nghiệp được chú trọng, phát huy hiệu quả.

Từ năm 2011, bắt đầu thời kỳ chuyển từ dân số trẻ sang già hóa dân số nhưng hoạt động của bộ máy DS-KHHGĐ vẫn chưa điều chỉnh phù hợp.

Các nội dung về dân số phát triển thuộc chức năng quản lý Nhà nước của nhiều cơ quan nhưng chưa có cơ chế phối hợp chặt chẽ.

Mặt hạn chế là tổ chức bộ máy nhiều thay đổi, quá trình củng cố kéo dài. Đội ngũ cán bộ, cộng tác viên dân số chưa được đào tạo, cập nhật kiến thức về các nội dung dân số phát triển.

Chế độ đãi ngộ đối với cộng tác viên dân số còn thấp. Hệ thống pháp luật, chính sách DS-KHHGĐ không ngừng được hoàn thiện.

Pháp lệnh Dân số 2003 được sửa đổi năm 2008 điều chỉnh quy định số con của mỗi cặp vợ chồng.

Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều Nghị định, Chiến lược về công tác DS-KHHGĐ.

Nội dung công tác DS-KHHGĐ được đưa vào nhiều quy định của Đảng, được lồng ghép trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, được thể hiện trong các quy chế nội bộ cơ quan, hương ước, quy ước của cộng đồng.

Ngân sách Nhà nước đã tập trung đầu tư nguồn lực cơ bản đảm bảo thực hiện các chương trình DS-KHHGĐ.

Tuy nhiên, đầu tư từ ngân sách Nhà nước, nguồn tài trợ quốc tế thời gian gần đây giảm mạnh trong khi chưa huy động được nhiều nguồn lực xã hội cho công tác dân số.

Với chủ trương và biện pháp đúng cùng với sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, tốc độ gia tăng dân số nhanh ở nước ta đã được giải quyết căn bản, đạt mức sinh thay thế sớm hơn 10 năm so với mục tiêu đề ra.

Cơ cấu, phân bố dân số có chuyển biến tích cực. Tỷ trọng người trong độ tuổi lao động tăng mạnh, giảm gánh nặng dân số phụ thuộc. Chất lượng dân số được cải thiện về nhiều mặt.

Tuy nhiên, việc giảm nhanh mức sinh dẫn đến gia tăng mất cân bằng giới tính khi sinh, già hóa dân số sớm. Công tác dân số mới tập trung vào kế hoạch hóa gia đình. Các yếu tố về chất lượng, phân bố dân số - nhất là quản lý di dân, chưa được chú trọng đúng mức. Nhận thức, hiểu biết, kinh nghiệm về dân số phát triển còn rất bất cập.

Những hạn chế yếu kém nêu trên do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân chủ quan chủ yếu là: Việc một số cấp ủy đảng, chính quyền chưa nhận thức đúng và đầy đủ về tính chất lâu dài, khó khăn, phức tạp, tầm quan trọng và ý nghĩa của công tác dân số. Chậm đổi mới tư duy về công tác dân số.

Trong nhận thức và hành động còn nặng về kế hoạch hóa gia đình, chưa chú trọng các mặt cơ cấu, phân bổ, chất lượng dân số và các yếu tố dân số phát triển. Tư tưởng muốn có nhiều con, trọng nam hơn nữ vẫn còn tồn tại phổ biến trong một bộ phận nhân dân, kể cả cán bộ, đảng viên.

Quan điểm, mục tiêu công tác dân số trước yêu cầu mới

Nước ta có quy mô dân số lớn, đứng thứ 14 trên thế giới, mật độ dân số cao. Những nơi điều kiện kinh tế xã hội còn nhiều khó khăn có mức sinh cao, có nơi rất cao. Trong khi ở một số vùng đô thị, kinh tế phát triển, mức sinh đã xuống thấp, có nơi thấp xa so với mức sinh thay thế.

Thời gian còn lại của thời kỳ “dân số vàng” không nhiều, tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh diễn ra trầm trọng (Ảnh minh họa)

Theo nhiều nghiên cứu quốc tế, Việt Nam là một trong 5 nước có tốc độ già hóa dân số nhanh nhất thế giới.

Thời gian còn lại của thời kỳ “dân số vàng” không nhiều, tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh diễn ra trầm trọng. Đô thị hóa, công nghiệp hóa và điều kiện sinh sống ở một số vùng khó khăn đặt ra nhiều thách thức trong công tác quản lý di cư.

Chính sách hạn chế mức sinh kéo dài giải quyết được vấn đề quy mô dân số, nhưng cũng để lại nhiều hệ lụy, trong đó phải kể đến: Tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh ngày càng trầm trọng; chất lượng dân số bị ảnh hưởng do những người chưa có điều kiện nuôi dạy con tốt còn sinh nhiều con và những người có điều kiện lại sinh ít con.

Mặt khác, nếu không khống chế được quy mô dân số sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới đầu tư cho bảo đảm an sinh xã hội, tăng thu nhập bình quân trên đầu người nói riêng và phát triển kinh tế - xã hội nói chung.

Cần khẳng định, dân số là yếu tố quan trọng hàng đầu của sự phát triển đất nước. Công tác dân số là nhiệm vụ có tính chiến lược, vừa cấp thiết vừa lâu dài; là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân. Chuyển trọng tâm chính sách dân số từ kế hoạch hóa gia đình sang dân số và phát triển.

Công tác dân số phải chú trọng toàn diện các mặt quy mô, cơ cấu, phân bố, chất lượng và đặt trong mối quan hệ mật thiết với các yếu tố kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh bảo đảm phát triển nhanh và bền vững.

Chính sách dân số phải bảo đảm giữa quyền và nghĩa vụ của mọi người dân; giữa việc tuyên truyền vận động, nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi với thực thi nghiêm kỷ cương pháp luật; giữa việc mở rộng, ứng dụng các kỹ thuật mới với việc nâng cao chất lượng dịch vụ, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nhân dân. 

Đầu tư cho công tác dân số là đầu tư cho phát triển. Nhà nước ưu tiên bố trí ngân sách, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa, tranh thủ sự hỗ trợ của quốc tế bảo đảm nguồn lực cho công tác dân số.

Tổ chức bộ máy tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, phù hợp với trọng tâm công tác dân số trong từng thời kỳ bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền và thống nhất trong quản lý chuyên môn nghiệp vụ.

Về mục tiêu, cần giải quyết toàn diện, đồng bộ các vấn đề về quy mô, cơ cấu, chất lượng, phân bố dân số và đặt trong mối quan hệ tác động qua lại với phát triển kinh tế- xã hội. Duy trì vững chắc mức sinh thay thế; đưa tỉ số giới tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên; tận dụng hiệu quả cơ cấu “dân số vàng”, thích ứng với già hóa dân số, nâng cao chất lượng dân số, phân bố dân số hợp lý góp phần phát triển nhanh và bền vững đất nước.

Một số nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu

Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng và chính quyền. Chuyển trọng tâm chính sách từ tập trung vào kế hoạch hóa gia đình sang giải quyết toàn diện các vấn đề quy mô, cơ cấu, chất lượng dân số và phân bố dân số trong mối quan hệ qua lại với phát triển kinh tế- xã hội.

Thực hiện lồng ghép có hiệu quả các yếu tố dân số trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án. Khai thác tối đa lợi thế của “dân số vàng” đối với sự phát triển nhanh và bền vững đất nước.

Nâng cao hiệu quả phối hợp liên ngành, phát huy vai trò, huy động mạnh mẽ sự tham gia của các tổ chức đoàn thể xã hội và người dân trong công tác dân số.

Tăng cường sự lãnh đạo của đảng khi sửa đổi, điều chỉnh các quy định về hình thức kỷ luật, xử lý những trường hợp sinh con thứ 3 trở lên.

Đề cao tính tiên phong, gương mẫu của mỗi đảng viên trong việc thực hiện chủ trương mỗi cặp vợ chồng sinh đủ 2 con, chú trọng nuôi dạy con tốt, tạo sức lan tỏa sâu rộng trong toàn xã hội.

Đổi mới nội dung tuyên truyền vận động về công tác dân số. Nội dung truyền thông, giáo dục phải chuyển mạnh từ tập trung vào kế hoạch hóa gia đình sang giải quyết toàn diện các vấn đề quy mô, cơ cấu, chất lượng dân số và phân bổ dân số.

Tiếp tục thực hiện cuộc vận động mỗi cặp vợ chồng có 2 con, bảo đảm quyền và trách nhiệm trong việc sinh và nuôi dạy con tốt.

Ngăn ngừa tư tưởng tâm lý không hạn chế số con. Tập trung vận động sinh ít con hơn ở vùng có mức sinh cao, duy trì kết quả ở những nơi đã đạt mức sinh thay thế, sinh đủ 2 con ở những nơi có mức sinh thấp. Đẩy mạnh truyền thông giáo dục chuyển đổi hành vi nhằm giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh.

Tạo chuyển biến rõ nét ở những vùng có tỉ số giới tính khi sinh cao. Nâng cao nhận thức, thực hiện nghiêm các quy định của pháp luật về cấm tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống.

Đổi mới toàn diện, nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục dân số, sức khỏe sinh sản trong và ngoài nhà trường. Hình thành kiến thức và kỹ năng về dân số sức khỏe sinh sản đúng đắn, có hệ thống ở thế hệ trẻ.

Rà soát, có lộ trình sửa đổi các quy định của đảng, cơ quan, đơn vị, địa phương về xử lý kỷ luật khi sinh con thứ 3 trở lên. Đồng thời đề cao tính gương mẫu của cán bộ, đảng viên trong việc thực hiện chính sách dân số, xây dựng gia đình văn hóa, hạnh phúc.

Xây dựng luật dân số để nâng cao hiệu lực pháp lý trong quản lý và tổ chức thực hiện, bảo đảm đầy đủ hơn quyền và nghĩa vụ của người dân, triển khai toàn diện các nội dung của công tác dân số.

Tăng cường thanh tra, kiểm tra xử lý nghiêm các vi phạm. Kiện toàn hệ thống thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm các vi phạm. Kiện toàn hệ thống thanh tra chuyên ngành dân số.

Rà soát, bổ sung các quy định của pháp luật về nghiêm cấm lựa chọn giới tính thai nhi. Ngăn ngừa có hiệu quả việc lạm dụng khoa học công nghệ để lựa chọn giới tính thai nhi. Đẩy mạnh công tác bình đẳng giới, vì sự tiến bộ phụ nữ.

Có chiến lược khai thác tối đa lợi thế cơ cấu “dân số vàng”, tạo động lực mạnh mẽ cho sự phát triển nhanh và bền vững đất nước, thích ứng với già hóa dân số.

Có chính sách khuyến khích sử dụng người cao tuổi tham gia các hoạt động xã hội để phát huy người cao tuổi đồng thời bảo đảm mục tiêu bảo vệ, chăm sóc người cao tuổi.

Nâng cao chất lượng quy hoạch các đô thị, khu công nghiệp, khu chế xuất, chủ động chuẩn bị các điều kiện để dân cư được phân bổ tương ứng, phù hợp với sự phát triển kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng của từng vùng và trong chiến lược tổng thể của đất nước.

Có chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho người di cư được tiếp cận đầy đủ và công bằng với các dịch vụ xã hội cơ bản. Hỗ trợ thỏa đáng để thu hút, tạo điều kiện cho người dân sinh sống ổn định, lâu dài ở các khu vực khó khăn, trọng yếu về an ninh quốc phòng.

Thực hiện có hiệu quả chính sách bảo vệ và phát triển các dân tộc thiểu số, đặc biệt là các dân tộc thiểu số ít người.

Nâng cao hiệu quả hoạt động của mạng lưới cung cấp dịch vụ dân số toàn diện về các mặt quy mô, chất lượng, cơ cấu, phân bổ dân số và hướng tới các chỉ số về dân số và phát triển.

Tiếp tục củng cố mạng lưới dịch vụ kế hoạch hóa gia đình. Tăng cường kết nối, hợp tác với các cơ sở cung cấp dịch vụ ngoài công lập. Đổi mới phương thức cung cấp dịch vụ, đưa dịch vụ tới tận người sử dụng; thúc đẩy cung cấp dịch vụ qua mạng.

Hoàn thiện quy hoạch, phát triển mạng lưới cung cấp các dịch vụ tầm soát, chẩn đoán sớm bệnh, tật trước sinh, sơ sinh, hỗ trợ sinh sản, tư vấn kiểm tra sức khỏe sinh sản trước hôn nhân.

Sắp xếp lại hệ thống các cơ sở bảo trợ xã hội công lập theo hướng đẩy mạnh xã hội hóa, tạo lập môi trường thân thiện, hòa nhập giữa các nhóm đối tượng và với xã hội.

Khuyến khích mạnh mẽ phát triển các cơ sở chăm sóc người cao tuổi; cơ sở cung cấp các loại hình dịch vụ đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, văn hóa, giải trí của người cao tuổi.

Ưu tiên đầu tư nguồn lực Nhà nước đồng thời huy động nguồn lực xã hội phát triển các cơ sở cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản bảo đảm các nhóm dân số đặc thù như: Trẻ em, người khuyết tật, người cao tuổi, đồng bào dân tộc ít người, người di cư... đều thực sự bình đẳng về cơ hội tham gia, thụ hưởng thành quả phát triển.

Đẩy mạnh nghiên cứu về dân số và phát triển, nhất là các vấn đề mới và lồng ghép yếu tố dân số vào chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển của từng ngành, vùng, địa phương.

Bảo đảm đủ nguồn lực đáp ứng yêu cầu triển khai toàn diện công tác dân số. Ngân sách Nhà nước tập trung cho các hoạt động truyền thông, đào tạo tập huấn nâng cao năng lực, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ, chi phí dịch vụ cho người nghèo, cận nghèo, đối tượng chính sách, đồng bào dân tộc thiểu số.

Đẩy mạnh xã hội hóa, có chính sách khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân trong và ngoài nước đầu tư xây dựng các cơ sở, sản xuất, phân phối, cung cấp các phương tiện, dịch vụ trong lĩnh vực dân số.

Phát triển thị trường, đa dạng hóa các gói bảo hiểm bao gồm bảo hiểm y tế Nhà nước, bảo hiểm y tế thương mại gồm nhiều mệnh giá tương ứng với các gói dịch vụ khác nhau để các nhóm dân số đặc thù đều được thụ hưởng các dịch vụ dân số.

Tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy làm công tác dân số theo hướng tinh gọn, chuyên nghiệp, hiệu quả. Bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền địa phương đồng thời thực hiện quản lý chuyên môn thống nhất. Duy trì, nâng cao hiệu quả hoạt động của đội ngũ cộng tác viên ở thôn, xóm, bản làng.

Đẩy mạnh đào tạo, nâng cao năng lực, thực hiện chuẩn hóa đội ngũ cán bộ dân số các cấp, các ngành đáp ứng yêu cầu chuyển hướng sang chính sách dân số và phát triển. Đưa nội dung dân số và phát triển vào chương trình đào tạo, tập huấn, nghiên cứu khoa học.

Xây dựng cơ chế phối hợp liên ngành nhằm tăng cường chỉ đạo, điều phối hoạt động của các ngành, cơ quan có chức năng quản lý các lĩnh vực liên quan tới dân số và phát triển.

Đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, cung cấp dịch vụ, tạo thuận lợi cho người dân.

Tích cực triển khai thực hiện đăng ký dân số và cơ sở dữ liệu dân cư quốc gia thống nhất dùng chung đáp ứng yêu cầu quản lý xã hội. Cung cấp đầy đủ số liệu về dân số phục vụ cho hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã hội.

Chủ động hội nhập, tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực dân số. Tranh thủ sự đồng thuận, hỗ trợ về kỹ thuật và tài chính của các tổ chức quốc tế, chính phủ các nước.

Tích cực tham gia các diễn đàn đa phương, song phương về dân số và phát triển. Tập trung nguồn lực để thực hiện các mục tiêu Phát triển bền vững của Liên Hợp quốc về dân số./.

Cùng loạt bài: