Hội đồng Chức danh giáo sư nhà nước (HĐCDGSNN) nhiệm kỳ 2014-2019 vừa tiến hành Kỳ họp lần thứ VII. Tham dự Kỳ họp có đầy đủ 31 thành viên HĐCDGSNN.

Năm 2017, số ứng viên nộp hồ sơ là 1.537, trong đó có 151 ứng viên GS và 1.386 ứng viên PGS. Số ứng viên năm nay có tăng là do ngày hết hạn nộp hồ sơ muộn hơn gần 6 tháng so với năm 2016 (năm nay là 05/11, năm 2016 là 25/5). Mặt khác, có thể các ứng viên mong muốn được xét theo quy định hiện hành trước khi có sự thay đổi về tiêu chuẩn chức danh.

Qua ba cấp HĐCDGSCS, HĐCDGSN, HĐCDGSNN, tổng số ứng viên đạt là 1.226 trên 1.537 (79,76%), trong đó ứng viên GS là 85 trên 151 (56,29%), ứng viên PGS là 1.146 trên 1.386 (82,68%).

Số ứng viên năm nay có tuổi đời trung bình trẻ hơn các năm trước: GS là 55 (năm 2016 là 57) và PGS là 45 (năm 2016 là 44).

pgs_tre_nhat_axnf.jpg

Anh Trần Xuân Bách (32 tuổi) là người trẻ nhất trong 638 nhà giáo được công nhận phó giáo sư năm 2016(ảnh: VTCNews)

Phó giáo sư trẻ nhất là 32 tuổi

Ứng viên GS trẻ nhất năm 2017 là Phạm Hoàng Hiệp (Viện Toán học, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt  Nam), 36 tuổi (sinh 01/03/1982), ngành Toán học; kỷ lục GS trẻ nhất Việt Nam cho đến hết năm 2016 là 37 tuổi.

Ứng viên PGS trẻ nhất năm 2017 là Đỗ Đức Thuận (Trường ĐH Bách khoa Hà Nội), 32 tuổi (sinh 28/9/1985), ngành Toán học; kỷ lục PGS trẻ nhất Việt Nam cho đến hết năm 2016 là 28 tuổi.

Tổng số ứng viên nữ: 349 người (28,46%), trong đó dân tộc thiểu số: 9 người. Số ứng viên là giảng viên thỉnh giảng: 232 người (18,92%). Số ứng viên làm việc tại Hà Nội: 713 người (58,15%), TP HCM: 205 người (16,72%), các tỉnh thành khác: 308 người (25,12%).

Năm 2016, số ứng viên của các tỉnh thành khác là 19,66%; số ứng viên nữ đạt tiêu chuẩn GS, PGS năm 2017 và số ứng viên đạt tiêu chuẩn GS, PGS các khu vực ngoài Hà Nội và TP HCM năm 2017 nhiều hơn các năm trước.

Năng lực tiếng Anh của các ứng viên tốt hơn các năm trước, nhất là các ứng viên trẻ, các ứng viên được đi du học theo Đề án 322, Đề án 911 của Chính phủ, ứng viên của các cơ sở giáo dục đại học có hợp tác quốc tế hiệu quả. Ở một số hội đồng, năng lực ngoại ngữ nhất là tiếng Anh của các ứng viên còn hạn chế.

Số lượng công bố quốc tế tăng nhanh

Theo thống kê, số lượng các bài báo khoa học được công bố trên các tạp chí ISI và Scopus của các ứng viên trong các năm gần đây tăng nhanh và năm 2017 là 5.316, trong đó Vật lý: 1.177, Hóa học-Công nghệ thực phẩm: 1.027, Y học: 674, Sinh học: 597...

Ứng viên một số ngành khoa học xã hội và nhân văn cũng đã có bài báo đăng trên các tạp chí ISI và Scopus, cụ thể: Kinh tế: 102, Triết học-Xã hội học-Chính trị học: 14.

Một số ứng viên có nhiều bài báo quốc tế ISI/ Scopus, có chỉ số H (được đề nghị như là thước đo về năng suất làm việc, ảnh hưởng của công trình nghiên cứu đến cộng đồng khoa học quốc tế) cao, hoặc có nhiều công trình được ứng dụng hiệu quả trong thực tế, đáng được biểu dương. Ví dụ: Nguyễn Quang Trường, ngành Sinh học có 160 bài; Nguyễn Thị Hồng Vân, ngành Vật lý: 153 bài; Trần Đại Lâm, ngành Hóa học: 114 bài, chỉ số H = 26; Trần Đăng Thành, ngành Vật lý: 110 bài, ...; Nhiều ứng viên có đề tài nghiên cứu khoa học đã được ứng dụng và chuyển giao công nghệ, đem lại hiệu quả kinh tế, xã hội tốt.

Một số ứng viên được trao giải thưởng quốc tế có uy tín vì thành tích nghiên cứu khoa học và phục vụ cộng đồng: Nguyễn Thế Hoàng (Bệnh viện Trung ương quân đội 108), giải thưởng A.v.Humboldt, APKO, J.N. Von Nussbaum của Đức; Nguyễn Thị Kim Tiến (Bộ Y tế), Huân chương Bắc đẩu Bội tinh của Pháp; Nguyễn Thị Lệ Thu (Trường ĐH Bách khoa, Đại học Quốc gia TP. HCM) và Hoàng Thị Đông Quỳ (Trường Đại học KHTN, Đại học Quốc gia TP.HCM): Giải thưởng cho các nhà khoa học nữ năm 2017 “L’Oreal – UNESCO For Women in Science”. Giải thưởng Bông lúa vàng, Giải thưởng Tạ Quang Bửu hoặc Huy chương vàng về Văn hóa-Nghệ thuật.../.