Theo các bác sỹ Viện mắt Trung ương, nguyên nhân chủ yếu của bệnh đau mắt đỏ là do virus Adenovirus hoặc do vi khuẩn như liên cầu, tụ cầu, phế cầu gây ra. Bệnh thường gặp vào mùa hè đến cuối mùa thu, khi thời tiết từ nắng nóng chuyển sang mưa, độ ẩm không khí cao, khi giao mùa hay khi môi trường nhiều khói bụi, vệ sinh kém, sử dụng nước ô nhiễm, dùng chung khăn mặt, gối…cũng là điều kiện thuận lợi cho bệnh bùng phát. Những người nhạy cảm với thời tiết, mệt mỏi, hệ thống miễn dịch yếu là đối tượng rất dễ bị nhiễm bệnh.

dau_mat1_qkah.jpg
Chú thích ảnh
Bệnh đau mắt đỏ có thể lây khi tiếp xúc trực tiếp với người bị bệnh qua đường hô hấp, nước mắt, nước bọt, bắt tay, đặc biệt nước mắt người bệnh là nơi chứa rất nhiều virus.Cách nhận biếtKhi bị đau mắt đỏ, người bệnh có biểu hiện chính là mắt đỏ và có ghèn. Thông thường, người bệnh sẽ đỏ một mắt trước, sau đó lan sang mắt thứ hai và cảm thấy khó chịu ở mắt, sau đó cộm như có cát, mắt nhiều ghèn, buổi sáng ngủ dậy hai mắt khó mở do nhiều dử dính chặt. Dử mắt có thể màu xanh hoặc màu vàng tùy tác nhân gây bệnh. Mi mắt sưng nề, mọng, mắt đỏ (do cương tụ mạch máu), đau nhức, chảy nước mắt.Khi bị đau mắt đỏ, người bệnh cũng có thể có thêm các triệu chứng như mệt mỏi, sốt nhẹ, đau họng, ho, xuất hiện hạch ở tai, vẫn nhìn thấy bình thường, thị lực không bị suy giảm. Tuy nhiên, nếu bệnh nặng, mắt người bệnh có thể bị phù đỏ, có màng trong mắt, xuất huyết dưới kết mạc…Phòng bệnh thế nào?Đau mắt đỏ là bệnh cấp tính, dễ lây nhưng thường lành tính và ít để lại di chứng nhưng thường gây ảnh hưởng nhiều đến sinh hoạt, học tập và lao động của người bệnh. Với những  trường hợp bệnh kéo dài, có thể gây biến chứng và ảnh hưởng đến thị lực sau này nên mọi người cần có ý thức phòng bệnh tốt và xử trí kịp thời khi mắc bệnh.Mầm bệnh có khả năng sống ở môi trường bình thường trong vài ngày và vẫn có thể là nguồn lây sau khi đã khỏi bệnh một tuần. Vì vậy, cách phòng bệnh tốt nhất là thực hiện triệt để các biện pháp vệ sinh và cách ly với người bệnh. Cụ thể như sau:- Khi không có dịch, phải luôn đảm bảo vệ sinh cá nhân, thường xuyên rửa tay bằng xà phòng và nước sạch; Dùng riêng khăn, gối, chậu rửa mặt;  Giặt sạch khăn mặt bằng xà phòng và nước sạch, phơi khăn ngoài nắng hàng ngày; Không dùng tay dụi mắt.- Khi đang có dịch đau mắt đỏ, ngoài việc luôn thực hiện các biện pháp trên, cần lưu ý rửa tay bằng xà phòng hoặc dung dịch sát khuẩn; Rửa mắt hàng ngày bằng nước muối sinh lý (nước muối 0,9%), ngày ít nhất 3 lần vào các buổi sáng, trưa, tối; Không dùng chung thuốc nhỏ mắt, không dùng chung đồ đạc với người đau mắt; Hạn chế tiếp xúc với người bị đau mắt; Hạn chế đến những nơi đông người đặc biệt là những nơi có nhiều mầm bệnh như bệnh viện, nơi đông người; Hạn chế sử dụng các nguồn nước bị ô nhiễm, hạn chế đi bơi.Cách xử lý

 Cách điều trị có hiệu quả nhất là khi tìm được nguyên nhân gây bệnh. Vì vậy, người bệnh cần đi khám tại cơ sở chuyên khoa mắt, không được tự ý mua thuốc tra nhỏ.. Có thể dùng nước muối sinh lý 0,9% hay nước mắt nhân tạo để rửa trôi mầm bệnh, rửa trôi chất tiết và dử mắt, làm dịu đôi mắt đang cộm rát khó chịu.Khi bị đau mắt đỏ, người bệnh hãy bỏ qua các mẹo dân gian như xông lá trầu, bỏ qua việc điều trị truyền tai tiêm kháng sinh vào mắt, bỏ qua cả việc kết hợp 3 – 4 loại thuốc mỗi ngày… bởi tất cả những cách đó không làm đau mắt đỏ nhanh khỏi.Nguyên tắc là rửa bên mắt bị đau nhẹ trước, mắt nặng sau. Khi rửa, cần dùng gạc (giấy sạch) hứng nước dưới đuôi mắt, không để nước từ mắt chảy ra dính xuống giường, đệm sẽ dễ lây bệnh cho người khác.Rửa sạch hai mắt xong, dùng gạc sạch lau khô dử mắt và hãy đi rửa tay xà phòng thật sạch rồi mới nhỏ thuốc. Việc rửa mắt sẽ dễ hơn nếu có người hỗ trợ. Đây là bước quan trọng nhất trong chăm sóc mắt đau mắt đỏ, giảm tiết dử, dính mắt do dử.Nếu rửa mắt đúng cách, thường sau ngày thứ 3 - 4 ngày, mắt sẽ không còn tiết dử, đỡ chói nhưng vẫn đỏ, chảy nước mắt. Đại đa số bệnh nhân chỉ cần thực hiện rửa mắt mỗi ngày thì sau 7 - 10 ngày là khỏi mà không phải dùng thêm loại thuốc nào.Nếu viêm kết mạc do vi khuẩn, dùng các thuốc rửa mắt như nước muối 0,9%, sau đó tra dung dịch kháng sinh và mỡ kháng sinh như tobramyxin, ofloxaxin… có thể uống thêm thuốc giảm phù.Nếu viêm kết mạc do virus, thường dùng kháng sinh tra mắt để phòng bội nhiễm chứ kháng sinh không diệt được virus. Trong trường hợp viêm kết mạc có giả mạc phải bóc giả mạc trước khi tra thuốc để thuốc ngấm tốt hơn.Với đau mắt đỏ dị ứng, tránh dụi mắt vì làm thế không giảm được ngứa. Thay vì việc đó nên đắp một miếng gạc lạnh để làm dịu. Cũng có thể dùng thuốc tra mắt không kê đơn như Naphcon-A hoặc Opcon-A, chứa kháng histamin và tác nhân gây co mạch.Người bệnh cần được nghỉ ngơi, điều trị cách ly, dùng thuốc theo đơn của thầy thuốc nhãn khoa. Sau 5-7 ngày, nếu bệnh không thuyên giảm cần tái khám, hạn chế giao tiếp tránh lây lan cho người khác trong thời gian bị bệnh.Ngoài ra, tăng cường bổ sung chất dinh dưỡng, hoa quả, vitamin và khoáng chất tăng sức đề kháng để nhanh lành bệnh hơn; uống nhiều nước, nghỉ ngơi, tránh khói bụi, đeo kính mát cho mắt.Người chưa mắc bệnh cần hạn chế tối đa tiếp xúc với người bệnh, khi tiếp xúc nên có khẩu trang. Trong nhà, nếu có người mắc bệnh cần hạn chế ngủ chung giường với người bệnh trong thời gian đau mắt đỏ và sau khi khỏi bệnh ít nhất 1 tuần. Nếu nhiều người trong gia đình bị đau mắt đỏ thì mỗi người dùng riêng một chai thuốc nhỏ, việc dùng chung một chai thuốc sẽ khiến bệnh có thể diễn tiến nặng thêm.Với trẻ nhỏ bị đau mắt đỏ, không đưa đến nhà trẻ trường học hoặc nơi đông người trong thời gian bị bệnh. Nếu trẻ bị đau mắt (thông thường sẽ bị 1 bên mắt trước), cha mẹ cần chăm sóc bé thật cẩn thận, tránh nhiễm bệnh cho mắt còn lại. Cho bé nằm nghiêng một bên, nhỏ mắt rồi dùng gạc y tế lau ngay dử và nước mắt chảy ra khi vệ sinh mắt (áp dụng tương tự với người lớn). Trước khi chăm sóc cho người bệnh, cần vệ sinh tay chân thật sạch sẽ. Rửa tay thường xuyên bằng xà phòng diệt khuẩn có tác dụng tốt hạn chế virus đau mắt đỏ lây lan cho người khác.Khi thấy bệnh nặng hơn, mắt mờ đi, người bệnh cần tới ngay bệnh viện để được bác sĩ thăm khám. Nếu bệnh không kịp thời được điều trị, chăm sóc cẩn thận, người bệnh sẽ bị giảm thị lực, gây sẹo./.