Dù chưa có loại thuốc điều trị thực sự hiệu quả nào, song các nhà nghiên cứu thuộc Đại học Reading, Anh mới đây đã chỉ ra 10 yếu tố chính làm gia tăng nguy cơ phát triển bệnh Alzheimer (chứng sa sút trí nhớ).

Trình độ học vấn

Trình độ học vấn thấp có liên quan đến việc tăng nguy cơ mắc bệnh Alzheimer. Theo nghiên cứu, trình độ học vấn càng cao, não bộ càng phát triển và càng nặng. Vì vậy, nếu như não bộ bị giảm 1/3 trọng lượng do sa sút trí nhớ, thì ngược lại một bộ não nặng hơn ngược sẽ tăng khả năng chống lại nguy cơ phát triển bệnh Alzheimer.

Hoạt động nhận thức

Giữ cho bộ não hoạt động cũng có thể giúp chống lại chứng sa sút trí tuệ. Các hoạt động như trò chơi ô chữ hoặc câu đố kích thích não bộ và có thể tăng cường kết nối giữa các tế bào não. Sự kết nối này bị phá vỡ khi bị sa sút trí tuệ. Do đó, chúng ta phải tiếp tục giữ cho bộ não của mình hoạt động, ngay cả khi về già. Nhiều nghiên cứu khác cũng chỉ ra rằng, việc kích thích não bộ thực sự làm giảm nguy cơ phát triển Alzheimer.

Tăng huyết áp

Từ lâu các nghiên cứu đã chỉ ra mối liên quan giữa một trái tim khỏe mạnh và một bộ não khỏe mạnh. Tuy nhiên, một nghiên cứu mới đây đồng thời cho thấy, huyết áp cao ở tuổi trung niên làm tăng nguy cơ mắc bệnh Alzheimer.

Tỷ lệ mắc bệnh tim ở những người cao huyết áp cao hơn ảnh hưởng đến việc cung cấp máu và chất dinh dưỡng lên não. Do đó, lượng máu cung cấp cho não giảm có liên quan đến bệnh Alzheimer.

Hạ huyết áp thế đứng

Nghiên cứu này cho thấy không chỉ cao huyết áp, mà hạ huyết áp tư thế đứng cũng là một yếu tố nguy cơ. Hạ huyết áp tư thế đứng có nghĩa là huyết áp hạ bất thường khi đứng lên sau khi ngồi hoặc nằm.

Do cơ thể không thể duy trì đủ lượng máu cung cấp cho não trong quá trình thay đổi tư thế, lâu ngày có thể gây suy nhược ảnh hưởng đến hoạt động của não do não thiếu oxy, làm tăng nguy cơ sa sút trí tuệ.

Bệnh tiểu đường

Các nghiên cứu cũng phát hiện ra rằng bệnh tiểu đường có liên quan đến tỷ lệ mắc bệnh Alzheimer cao hơn. Bởi vì căn bệnh này khiến cơ thể chúng ta không thể điều tiết insulin một cách thích hợp, có sự thay đổi trong cách các tế bào não giao tiếp và cách thức hoạt động trí nhớ, hai chức năng bị gián đoạn do bệnh Alzheimer.

Chấn thương đầu

Những chấn thương ở đầu trong quá khứ là một yếu tố nguy cơ. Có bằng chứng rõ ràng rằng chấn thương đó, chẳng hạn như chấn động, có thể góp phần phát triển chứng sa sút trí tuệ. Mối liên kết này được quan sát lần đầu tiên vào năm 1928.

Tuy nhiên, không chắc chắn liệu chấn thương đầu duy nhất hay lặp đi lặp lại là yếu tố góp phần. Nhưng rõ ràng tổn thương não do chấn thương đầu tương tự như tổn thương do sa sút trí tuệ. Cơ hội phát triển chứng mất trí nhớ sau này cũng tăng lên.

Sự tăng homocysteine máu (hyperhomocysteinemia)

Homocysteine ​​là một axit amin tự nhiên có liên quan đến việc sản xuất các cơ chế bảo vệ của cơ thể, bao gồm các chất chống oxy hóa ngăn ngừa tổn thương tế bào. Mức homocysteine ​​tăng cao trong máu của những người bị sa sút trí tuệ được báo cáo lần đầu tiên vào năm 1998. Các nghiên cứu trên động vật cho thấy mức độ cao của homocysteine ​​làm tổn thương các tế bào não bằng cách can thiệp vào quá trình sản xuất năng lượng của não bộ. Tăng tiêu thụ folate và vitamin B12 có thể làm giảm mức homocysteine ​​và do đó giảm nguy cơ mất trí nhớ.

Trầm cảm

Những người bị bệnh Alzheimer thường bị trầm cảm, mặc dù không biết liệu trầm cảm có phải là nguyên nhân gốc rễ của bệnh Alzheimer hay chỉ là một triệu chứng. Tuy nhiên, có rất nhiều bằng chứng cho thấy, trầm cảm thực sự là một yếu tố nguy cơ. Nghiên cứu thậm chí đã chỉ ra mối liên hệ giữa số lượng các giai đoạn trầm cảm, đặc biệt là mười năm trước khi bắt đầu sa sút trí tuệ và nguy cơ cao hơn.

Trầm cảm làm tăng mức độ hóa chất có hại trong não. Sự mất cân bằng của các hóa chất này có thể dẫn đến mất tế bào não, làm tăng khả năng mắc bệnh Alzheimer.

Căng thẳng

Cuối cùng, căng thẳng đã được xác định là một yếu tố nguy cơ. Về lâu dài, căng thẳng tấn công các tế bào miễn dịch của cơ thể, vốn đóng vai trò quan trọng trong việc chống lại chứng sa sút trí tuệ. Đặc biệt, có nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng hormone cortisol góp phần gây ra căng thẳng và có thể có tác động đến trí nhớ. Do đó, giảm căng thẳng và nồng độ cortisol có thể làm giảm nguy cơ phát triển chứng sa sút trí tuệ./.