Lạm phát tại Việt Nam chủ yếu là do chi phí đẩy
"Bóng ma" lạm phát đang ám ảnh các quốc gia trên thế giới. Lạm phát giá tiêu dùng đã vượt quá mục tiêu của các ngân hàng trung ương (NHTW) ở hầu hết các quốc gia thực hiện cơ chế lạm phát mục tiêu. Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới, lạm phát toàn cầu tính đến quý 2/2022 là 7,8%, mức cao nhất kể từ năm 2008, khi đó, lạm phát lên tới 9,2%. Số liệu vừa công bố cho thấy lạm phát của Mỹ trong tháng 6 đã tăng 9,1% so với cùng kỳ năm ngoái, mức cao nhất trong 40 năm qua. Số liệu sơ bộ được văn phòng thống kê châu Âu Eurostat công bố ngày 1/7 cũng cho thấy, lạm phát so với cùng kỳ năm ngoái ở Eurozone trong tháng 6 là 8,6%, cao hơn mức 8,4% mà giới phân tích đưa ra trước đó.
Trong cơn bão lạm phát, trên thế giới đang diễn ra cuộc đua tăng lãi suất, hầu hết các quốc gia đã tăng lãi suất, trừ Trung Quốc. Đã có tới 80 lượt tăng lãi suất trên toàn cầu trong 6 tháng đầu năm 2022. Lộ trình tăng lãi suất của Mỹ dự kiến sẽ tăng gấp đôi hiện nay. Tuy nhiên, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) vẫn đang nằm ngoài cuộc đua này.
Theo TS. Lê Xuân Nghĩa, thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tài chính - tiền tệ quốc gia, lạm phát thế giới đi vào Việt Nam theo con đường nhập khẩu, và đi dần vào giá tiêu dùng. Tức là chỉ có lạm phát chi phí đẩy chứ không bao gồm cả lạm phát cầu kéo như ở Mỹ và các nước châu Âu. Để chống lạm phát chi phí đẩy, việc nới lỏng và thắt chặt đều ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế, vì vậy, chính sách tiền tệ khó có động thái mạnh mẽ vào lúc này.
“Lạm phát này khiến chính sách lãi suất trở nên bất lực nên việc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tăng lãi suất như Ngân hàng Trung ương trên thế giới là điều không cần thiết. Nếu lãi suất tăng ở thời điểm hiện tại thì thị trường chứng khoán nguy hiểm”, ông Nghĩa cảnh báo.
Ông Nghĩa cho rằng, nên duy trì tính thận trọng của chính sách tiền tệ, đảm bảo sự ổn định cho thị trường chứng khoán.
“Tạm thời trong Quý 3 chưa nên đụng đến chính sách tiền tệ. Để chống lạm phát chi phí đẩy thì tăng lãi suất không phải là biện pháp. Điều duy nhất Chính phủ có thể làm lúc này là giảm thuế, trong đó có thuế xăng dầu. Bởi lẽ, xăng dầu của chúng ta đang đánh thuế 40%, khi giá xăng leo cao sẽ khiến tất cả các loại hàng hoá tăng giá”, ông Nghĩa nêu rõ.
Cùng quan điểm, TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia kinh tế cho rằng, lạm phát thế giới hiện nay đang tăng rất cao khiến các ngân hàng Trung ương buộc phải tăng lãi suất điều hành. Đáng chú ý, nguyên nhân khiến lạm phát tăng chủ yếu đến từ xăng dầu và những đợt bơm tiền hỗ trợ kinh tế trước đó. Trong khi đó, tại Việt Nam, lạm phát không phải do yếu tố tiền tệ nên Ngân hàng Nhà nước có tăng lãi suất điều hành cũng chưa chắc đã phát huy tác dụng. Cùng với đó, lãi suất cho vay đang chịu áp lực tăng. Nếu tiếp tục điều chỉnh tăng lãi suất cho vay thì người dân và doanh nghiệp sẽ gặp nhiều khó khăn hơn, đi ngược với chương trình phục hồi. Còn lãi suất cho vay bằng USD chắc chắn tăng theo đà tăng của thế giới.
“Bây giờ tăng lãi suất sẽ khiến kinh tế suy thoái nếu tăng nhanh quá mà chưa chắc cứu được lạm phát, vì lạm phát là do đứt gãy chuỗi cung ứng. Tốc độ tăng lãi suất chưa chắc là đã thuốc đặc trị mà còn gây phản ứng phụ”, ông Lực nhấn mạnh.
Cần kết hợp các chính sách tài khóa, tiền tệ một cách thận trọng
Liên quan đến vấn đề này, TS. Võ Trí Thành, Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển thương hiệu và cạnh tranh (BCSI) cho rằng, trong bối cảnh hiện nay, chính sách tiền tệ không giải quyết được vấn đề lạm phát một cách hoàn hảo. Muốn xử lý tốt vấn đề lạm phát Việt Nam cũng như nhiều nước, cần kết hợp các chính sách, can thiệp trực tiếp vào lãi suất cơ bản.
Về vấn đề tăng hay hạ lãi suất của ngân hàng nhà nước, TS. Võ Trí Thành lưu ý, nền kinh tế Việt Nam có nhiều điểm khác với kinh tế thế giới nên có tính chuyên biệt, đặc biệt là trong 3 năm trở lại đây. Ví dụ, trong 6 tháng đầu năm 2021, Việt Nam nổi lên như một ngôi sao bởi chúng ta duy trì được mức độ tăng trưởng dương. Thế nhưng, trong 6 tháng cuối năm 2021 thì ngược lại, khi nền kinh tế thế giới phục hồi tốt thì chúng ta lại lạc nhịp. Hay ví dụ như 6 tháng đầu năm nay tăng trưởng kinh tế thế giới xấu nhưng Việt Nam lại phục hồi rất tốt.
“Chính những điểm khác biệt này khiến chúng ta không thể điều hành lãi suất như thế giới”, TS. Võ Trí Thành nói.
Bên cạnh đó, trong chiến lược phát triển và phục hồi kinh tế, Việt Nam đặt trọng tâm vào vấn đề lãi suất và tiền tệ, nên các điều hành liên quan đến vấn đề này vô cùng quan trọng, đòi hỏi buộc phải thận trọng.
“Mức độ mức giá của đồng Việt Nam hiện nay không quá lớn nên cần giữ ổn định tỷ giá của đồng Việt Nam. Ngoài ra, hiện nay cán cân thanh toán quốc tế tương đối ổn định, thặng dư không quá nhiều nên việc tăng lãi suất cũng chưa phải là vấn đề cần thiết”, TS. Võ Trí Thành nêu quan điểm.
Bàn về giải pháp cho doanh nghiệp, theo TS. Cấn Văn Lực, doanh nghiệp, nhà đầu tư cần tận dụng tối đa các nguồn hỗ trợ, tiết giảm chi phí, giữ lao động, tăng năng suất lao động.
Đặc biệt, doanh nghiệp nên áp dụng mô hình 6Rs, bao gồm: Respond (thích ứng, linh hoạt), Recover (phục hồi càng nhanh càng tốt), Restructure (tái cấu trúc), Re-invent (đổi mới, sáng tạo, chuyển đổi số), Risk management (quản lý rủi ro), Resilience (tăng sức đề kháng khả năng chống chịu các cú sốc).
“Nhà đầu tư cần đa dạng hóa, có đòn bẩy hợp lý và hạn chế tâm lý đám đông. Đồng thời, cần tích lũy kiến thức, kinh nghiệm và đầu tư dài hơi hơn”, ông Lực khuyến nghị./.