Mục tiêu của Chiến lược nhằm xác định những ngành, lĩnh vực ưu tiên trong thu hút FDI giai đoạn 2018-2030; rà soát khung chính sách FDI và kiến nghị các giải pháp, chính sách cụ thể giúp Việt Nam đẩy mạnh thu hút FDI vào những lĩnh vực ưu tiên này.

Theo cơ quan soạn thảo, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) dù được đánh giá là khá thành công trong những năm qua, song đến giai đoạn hiện nay, để nâng cao hiệu quả, đã đến lúc cần những định hướng mới cho nguồn vốn này.

thu_hut_fdi_the_he_moi_pkfc.jpg
Thu hút FDI thế hệ mới: Ưu đãi dựa trên hiệu quả thay vì lợi nhuận (Ảnh minh họa: KT)

Chuyển dịch trọng tâm thu hút đầu tư

Điểm nhấn chính của “Chiến lược Thu hút FDI thế hệ mới” là sự chuyển dịch trọng tâm từ thu hút nhà đầu tư phù hợp cho ‘sản phẩm’ của Việt Nam sang phát triển sản phẩm phù hợp (tức là môi trường kinh doanh và điều kiện đầu tư phù hợp) cho loại hình đầu tư mà Việt Nam cần trong tương lai. Nhờ đó, có thể tăng tối đa hiệu ứng lan toả và giá trị gia tăng của FDI.

Về lĩnh vực trọng tâm ưu tiên đầu tư, các chuyên gia WB đã chỉ ra hàng loạt lĩnh vực ưu tiên mới đó là: công nghiệp ô tô, xe máy và công nghiệp phụ trợ (sản xuất kim loại/khoáng sản/hóa chất/nhựa phẩm cấp cao và linh kiện công nghệ cao), máy móc, thiết bị công nghiệp, logistics, sản phẩm nông nghiệp mới giá trị cao, công nghệ môi trường, năng lượng tái tạo, dịch vụ ứng dụng CNTT. Cùng với đó là các ngành dịch vụ xuyên suốt quan trọng cần tiếp tục mở cửa để tạo điều kiện tiếp tục tăng trưởng, chẳng hạn như dịch vụ tài chính và giáo dục.

Còn theo các chuyên gia của Ngân hàng Thế giới (WB), dù có rất nhiều ngành cần ưu tiên thu hút FDI trong giai đoạn tới, nhưng Việt Nam cũng không được quên những loại hình FDI cơ bản, những lĩnh vực đã làm nên thành công của Việt Nam trong thu hút đầu tư nước ngoài.

“Vẫn còn những tỉnh thu hút được ít vốn FDI, nên định hướng cho các địa phương này thu hút vào những lĩnh vực đầu tư truyền thống, để có được bức tranh đồng đều và cân bằng hơn. Chẳng hạn trong lĩnh vực nông nghiệp, dệt may, da giày, đầu tư vào những khu vực vùng sâu, vùng xa, những nơi vẫn cần giải quyết việc làm...”, đại diện nhóm nghiên cứu WB nhận định.

Chính sách ưu đãi dựa trên hiệu quả đầu tư thay vì lợi nhuận

Theo các chuyên gia quốc tế, hiện nay Việt Nam đang phụ thuộc nhiều vào chính sách miễn thuế có thời hạn, miễn thuế có thời hạn một phần cũng như các chế độ thuế suất ưu đãi và miễn thuế nhập khẩu để thu hút đầu tư FDI. Tuy nhiên, cơ chế này chưa phải là phù hợp để Việt Nam đẩy mạnh thu hút FDI mang tính đổi mới sang tạo và sử dụng công nghệ tiên tiến, đòi hỏi lao động có tay nghề cao, có thu nhập cao hơn và thúc đẩy đổi mới và năng lực kinh doanh.

Mặc dù Việt Nam đang thu hút hiệu quả đầu tư từ Nhật Bản và Hàn Quốc, nhưng về dài hạn, phải thu thu hút nhiều hơn các nhà đầu tư từ các nước khác như châu Âu và Mỹ để đa dạng hóa nguồn vốn FDI. Đồng thời, tận dụng được đầu tư từ khu vực này cho các hoạt động mang lại giá trị gia tăng cao hơn, cũng như tăng cường chuyển giao công nghệ cho khối kinh tế tư nhân trong nước.

GS.TSKH Nguyễn Mại, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp đầu tư trực tiếp ước ngoài cho rằng, trong chiến lược thu hút FDI tới đây, không chỉ là tìm “lời giải” đối với Nhật Bản hay Hàn Quốc, mà phải là Mỹ và Liên minh Châu Âu (EU).

“Làm sao phải kéo được các nhà đầu tư này vào, nếu không, chúng ta sẽ phụ thuộc nhiều vào các nhà đầu tư từ châu Á, kể cả từ Trung Quốc - vốn đang có nhiều vấn đề. Bên cạnh hàng rào thuế quan được xóa bỏ thì Việt Nam cũng cần thực hiện nhiều giải pháp để cải thiện môi trường đầu tư như cải thiện thủ tục hành chính và đồng bộ hoá với phía châu Âu và Mỹ”, GS.TS Nguyễn Mại nhấn mạnh.

Theo các chuyên gia của WB, thời gian tới, Việt Nam cần thay thế chính sách ưu đãi dựa trên lợi nhuận bằng chính sách ưu đãi dựa trên hiệu quả. Cần xem xét lại toàn bộ khung chính sách ưu đãi đầu tư hiện tại và tái thiết lập sự cân bằng giữa các chính sách ưu đãi “dựa trên lợi nhuận” với ưu đãi “dựa trên hiệu quả”. Theo đó, cần chuyển tương ứng các quy định về ưu đãi từ Luật Đầu tư sang Luật Thuế và Luật Hải quan, với sự hỗ trợ của một hệ thống giám sát và đánh giá hiệu quả./.