Vấn đề về cơ chế quản lý, sử dụng vốn Nhà nước (VNN) đầu tư vào DN mặc dù đã được ban hành và sửa đổi theo từng giai đoạn nhưng vẫn còn nhiều tồn tại, cần được hoàn thiện trên cơ sở phù hợp, chặt chẽ hơn để đảm bảo nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN và đảm bảo vốn đầu tư của Nhà nước có hiệu quả, bảo toàn và tăng trưởng.

Theo đánh giá của ông Nguyễn Đức Tặng, nguyên Phó Cục trưởng Cục Tài chính DN, Bộ Tài chính, việc quản lý VNN tại DN đã có khung khổ pháp lý khá đầy đủ từ khâu đầu tư đến quản lý, giám sát quá trình sử dụng; hình thức văn bản có cả luật, nghị định, thông tư; việc phân cấp cũng được quy định rõ ràng. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều bất cập trong việc quản lý VNN tại DN mà nổi bật nhất là sự chưa rõ ràng, chuẩn xác, thiếu nhất quán về khái niệm “vốn Nhà nước” trong các văn bản pháp luật hiện hành.

Cụ thể, trong Luật Đầu tư 2005, VNN bao gồm vốn ngân sách, vốn tín dụng do Nhà nước bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và vốn đầu tư khác của Nhà nước.

Trong Luật Đấu thầu 2005, VNN có thêm vốn đầu tư của DNNN. Theo Nghị định số 99/2012/NĐ-CP, VNN tại các DN gồm VNN tại các công ty TNHH 100% VNN do các bộ, UBND tỉnh quản lý hoặc giao quản lý và vốn đầu tư của các công ty mẹ có 100% VNN vào các công ty con và công ty liên kết.

Theo phân tích của TS. Vũ Nhữ Thăng, Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách tài chính, Bộ Tài chính, sự thiếu nhất quán nói trên đã dẫn đến cách hiểu VNN tại các tập đoàn, tổng công ty Nhà nước sẽ bao gồm cả vốn của các DN này đầu tư vào DN khác, đồng thời dẫn đến việc coi các công ty con của các tập đoàn, tổng công ty này cũng chịu sự điều chỉnh trực tiếp và toàn diện của pháp luật về DNNN.

Từ đó, phạm vi quản lý của chủ sở hữu Nhà nước sẽ rất rộng, không phù hợp, dẫn đến tình trạng xác định không đúng chủ sở hữu, đối tượng, phạm vi quản lý và định hướng cơ chế, chính sách cũng như việc đánh giá hiệu quả hoạt động và quản lý phần vốn của Nhà nước đầu tư và DN.

Dựa trên khái niệm về VNN, đặc điểm của VNN, TS. Vũ Nhữ Thăng cho rằng, khái niệm “vốn Nhà nước” đầu tư cần được xác định thống nhất trên hai nội dung. Thứ nhất, VNN được ngân sách Nhà nước đầu tư một lần khi thành lập DN hoặc tăng vốn trong quá trình hoạt động kinh doanh, từ nguồn Quỹ đầu tư phát triển tại DN, Quỹ hỗ trợ sắp xếp DN, các tài sản theo quy định của pháp luật được Nhà nước giao cho DN… và không bao gồm vốn vay. Thứ hai, VNN chỉ đầu tư vào DN cấp I (công ty mẹ), do đó chủ sở hữu có quyền quyết định, trách nhiệm quản lý và giám sát đối với phần vốn đầu tư và DN cấp I, không coi việc sử dụng nguồn vốn công ty mẹ đầu tư vào DN khác là VNN đầu tư.

Cùng quan điểm này, ông Nguyễn Đức Tặng khuyến nghị nên thống nhất lại các khái niệm về VNN, DNNN, cổ phần, vốn góp chi phối… để làm cơ sở xây dựng cơ chế quản lý DNNN nói chung và quản lý VNN tại DNNN nói riêng, bao gồm cả vấn đề phân cấp đại diện chủ sở hữu VNN tại DN.

Bên cạnh đó, một giải pháp quan trọng cần làm ngay là hoàn chỉnh cơ chế quản lý tài chính nói chung và quy chế quản lý VNN tại DN nói riêng, trong đó tập trung vào việc đầu tư ra ngoài DN, vấn đề trích lập các quỹ tại DN… đảm bảo phù hợp với thực tế, tập trung nguồn lực cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của DN; bảo đảm công bằng, bình đẳng giữa người lao động của DNNN và DN ngoài Nhà nước.

Cùng với đó, việc nghiên cứu xây dựng và ban hành một số nội dung như quy chế giám sát và đánh giá DNNN; phương thức đấu thầu, đặt hàng sản xuất, cung ứng các sản phẩm dịch vụ công ích phù hợp với tính chất của từng loại hàng hóa, dịch vụ, từng địa phương; phương thức đầu tư vốn cho các tổ chức kinh tế nói chung và đầu tư cho DN nói riêng… cũng cần khẩn trương triển khai để sớm lấp đi những khoảng trống pháp lý trong quản lý VNN tại các DN./.