Trong đó, về mức giảm trừ gia cảnh, Nghị định quy định cụ thể: Cá nhân cư trú có thu nhập tiền lương, tiền công, thu nhập từ kinh doanh được giảm trừ gia cảnh vào thu nhập chịu thuế trước khi tính thuế với mức giảm trừ gia cảnh gồm: Mức giảm trừ đối với người nộp thuế là 9 triệu đồng/tháng (quy định trước đây là 4 triệu đồng/tháng); Mức giảm trừ cho mỗi người phụ thuộc mà người nộp thuế có nghĩa vụ nuôi dưỡng là 3,6 triệu đồng/tháng (quy định trước đây là 1,6 triệu đồng/tháng) kể từ tháng phát sinh nghĩa vụ nuôi dưỡng.
Nghị định cũng quy định, trong trường hợp Uỷ ban Thường vụ Quốc hội điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh theo quy định tại khoản 4 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế thu nhập cá nhân thì thực hiện theo mức do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định để áp dụng cho kỳ tính thuế tiếp theo.
Đặc biệt, mỗi người phụ thuộc chỉ được tính giảm trừ một lần vào một người nộp thuế trong năm tính thuế. Trường hợp nhiều người nộp thuế có chung người phụ thuộc phải nuôi dưỡng thì phải tự thỏa thuận để đăng ký giảm trừ gia cảnh vào một người nộp thuế.
Còn đối tượng và căn cứ xác định người phụ thuộc mà người nộp thuế có nghĩa vụ nuôi dưỡng được quy định: Con (con đẻ, con nuôi hợp pháp, con riêng của vợ, con riêng của chồng) dưới 18 tuổi; Con (con đẻ, con nuôi hợp pháp, con riêng của vợ, con riêng của chồng) từ 18 tuổi trở lên bị khuyết tật, không có khả năng lao động; Con (con đẻ, con nuôi hợp pháp, con riêng của vợ, con riêng của chồng) đang học đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề, kể cả con từ 18 tuổi trở lên đang học bậc học phổ thông mà không có thu nhập hoặc có thu nhập không vượt quá mức thu nhập quy định (bình quân 1 triệu đồng/tháng);
Đối với người ngoài độ tuổi lao động, người trong độ tuổi lao động theo quy định của pháp luật nhưng bị khuyết tật, không có khả năng lao động mà không có thu nhập hoặc có thu nhập nhưng không vượt quá mức thu nhập quy định, bao gồm: Vợ hoặc chồng của người nộp thuế; Cha đẻ, mẹ đẻ, cha dượng, mẹ kế, cha mẹ nuôi hợp pháp, cha vợ, mẹ vợ (hoặc cha chồng, mẹ chồng) của người nộp thuế; Cá nhân khác không nơi nương tựa mà người nộp thuế phải trực tiếp nuôi dưỡng.
Mức thu nhập làm căn cứ xác định người phụ thuộc được áp dụng giảm trừ được quy định trong Nghị định này là mức thu nhập bình quân tháng trong năm từ tất cả các nguồn thu nhập không vượt quá 1.000.000 đồng.
Nghị định còn quy định người nộp thuế tự kê khai số lượng người phụ thuộc kèm theo giấy tờ hợp pháp và tự chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác của việc kê khai.
Các thủ tục, hồ sơ kê khai người phụ thuộc được giảm trừ gia cảnh do Bộ Tài chính quy định. Liên quan đến quy định với người phụ thuộc khi giảm trừ gia cảnh, theo thông tin từ Tổng cục Thuế cho biết, Tổng cục sẽ cấp mã số thuế tự động cho người phụ thuộc kể từ ngày 1/7/2013 dựa trên thông tin đăng ký giảm trừ gia cảnh của người nộp thuế.
Người nộp thuế chỉ phải đăng ký giảm trừ cho bản thân và người phụ thuộc 1 lần trong suốt thời gian tính giảm trừ gia cảnh và chỉ đăng ký lại khi có sự thay đổi về người phụ thuộc và thay đổi nơi làm việc. Với những trường hợp nào không đăng ký mã số thuế mới cho người phụ thuộc từ 1/7 sẽ không được giảm trừ gia cảnh, riêng các trường hợp đã đăng ký từ trước khi luật mới có hiệu lực thì được tiếp tục tính giảm trừ gia cảnh cho đến khi được cơ quan thuế cấp mã số thuế.
Nghị định 65 quy định thu nhập chịu thuế của cá nhân gồm các loại thu nhập từ: hoạt động sản xuất, kinh doanh; tiền lương, tiền công mà người lao động nhận được từ người sử dụng lao động; đầu tư vốn; chuyển nhượng vốn; chuyển nhượng bất động sản; trúng thưởng bằng tiền hoặc hiện vật; bản quyền; nhượng quyền thương mại theo quy định của Luật thương mại; thừa kế là chứng khoán, phần vốn trong các tổ chức kinh tế, cơ sở kinh doanh, bất động sản và tài sản khác phải đăng ký sở hữu hoặc đăng ký sử dụng; nhận quà tặng là chứng khoán, phần vốn trong các tổ chức kinh tế, cơ sở kinh doanh, bất động sản và tài sản khác phải đăng ký sở hữu hoặc đăng ký sử dụng./.