Nguồn lực nào để “rót vốn” vào làm hạ tầng sân bay
Tại dự thảo về việc phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng hàng không, sân bay toàn quốc và qua rà soát, hoàn chỉnh hồ sơ quy hoạch tổng thể của Cục Hàng không Việt Nam, trong thời kỳ 2021-2030, mạng cảng hàng không được quy hoạch theo mô hình trục nan với 2 đầu mối chính tại khu vực Thủ đô Hà Nội và khu vực TP Hồ Chí Minh, hình thành 28 cảng hàng không bao gồm 14 cảng hàng không quốc tế (Vân Đồn, Cát Bi, Nội Bài, Thọ Xuân, Vinh, Phú Bài, Đà Nẵng, Chu Lai, Cam Ranh, Liên Khương, Long Thành, Tân Sơn Nhất, Cần Thơ và Phú Quốc); 14 cảng hàng không quốc nội (Lai Châu, Điện Biên, Sa Pa, Nà Sản, Đồng Hới, Quảng Trị, Phù Cát, Tuy Hòa, Pleiku, Buôn Ma Thuột, Phan Thiết, Rạch Giá, Cà Mau và Côn Đảo).
Tổng công suất thiết kế hệ thống cảng hàng không đáp ứng khoảng 283 triệu hành khách, đảm bảo trên 95% dân số có thể tiếp cận tới cảng hàng không trong phạm vi 100km.
Bên cạnh đó, hồ sơ quy hoạch cũng nghiên cứu, khảo sát, đánh giá khả năng quy hoạch, xây dựng cảng hàng không, sân bay tại các đảo (như Lý Sơn, Phú Quý...), quần đảo có nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh; quy hoạch, xây dựng cảng hàng không tại một số sân bay quân sự (Thành Sơn, Biên Hòa...) trong trường hợp đủ điều kiện.
Về tầm nhìn đến năm 2050, hồ sơ quy hoạch kiến nghị hình thành 31 cảng hàng không, bao gồm 14 cảng hàng không quốc tế (Vân Đồn, Hải Phòng, Nội Bài, Thọ Xuân, Vinh, Phú Bài, Đà Nẵng, Chu Lai, Cam Ranh, Liên Khương, Long Thành, Tân Sơn Nhất, Cần Thơ và Phú Quốc); 17 cảng hàng không quốc nội (thêm sân bay Cao Bằng và Cảng hàng không thứ 2 phía Đông Nam Thủ đô Hà Nội) đồng thời hình thành một số cảng hàng không, sân bay tại các đảo, quần đảo có nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và có điều kiện tự nhiên thuận lợi.
Theo ông Trương Mạnh Tiến, Hội Kinh tế môi trường Việt Nam, quy hoạch cảng hàng không, sân bay cần có kịch bản dự báo đối với các vấn đề về tốc độ và xu hướng phát triển kinh tế đất nước; hàng hóa hàng không (cơ cấu khách hàng, hàng hóa, nguồn hàng); sự phát triển các loại hình giao thông khác (đường sắt, đường bộ, sự phát triển của công nghệ hàng không); xu hướng phát triển hàng không thế giới, khu vực và các quốc gia lân cận,...
“Từ kết quả dự báo mới cho phép đưa ra các kịch bản về loại sân bay, quy mô sân bay, vị trí các sân bay và định hướng phát triển làm cơ sở cho việc đánh giá lựa chọn kịch bản tối ưu”, ông Tiến nhấn mạnh.
Ông Trần Kim Chung, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý Kinh tế Trung ương cho rằng, quy hoạch cần làm rõ về các tiêu chí, nguyên tắc lựa chọn đầu tư sân bay là gì? Các sân bay cần cách nhau bao nhiêu Km hay cứ mỗi tỉnh xây dựng một sân bay?
Ước tính chi phí đầu tư giai đoạn 2020-2030 khoảng 365.100 tỷ đồng; giai đoạn 2030-2050 khoảng 866.360 tỷ đồng. Nguồn vốn thực hiện quy hoạch được huy động tổng hợp các nguồn lực đầu tư khác nhau như: vốn vay ODA, nguồn vốn ngân sách, vốn vay thương mại từ các tổ chức tài chính, vốn từ xã hội hóa đầu tư theo hình thức PPP.
Nhiều phương án để huy động vốn
Về giải pháp về huy động vốn đầu tư, đối với cảng hàng không mới, Bộ GTVT sẽ huy động tối đa nguồn vốn của xã hội đầu tư theo phương thức PPP; giao UBND các tỉnh, thành phố có quy hoạch cảng hàng không mới là cơ quan có thẩm quyền để huy động, cân đối nguồn lực và tổ chức thực hiện đầu tư.
Đối với cảng hàng không hiện đang khai thác, Bộ GTVT cũng nghiên cứu xây dựng cơ chế phân cấp quản lý các cảng hàng không để địa phương có thể huy động nguồn lực đầu tư nâng cấp, mở rộng nhằm phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội của địa phương.
Riêng các cảng hàng không quan trọng quốc gia, các cảng hàng không có hoạt động quân sự chiến lược về quốc phòng, an ninh và các khu vực biên giới, hải đảo sẽ ưu tiên sử dụng nguồn lực của Nhà nước (doanh nghiệp Nhà nước và ngân sách Nhà nước) để đầu tư.
Ngoài ra, Chính phủ xem xét hỗ trợ, cho phép vay ưu đãi, bảo lãnh vay thương mại, tạo cơ chế, chính sách thuận lợi (thuế, đất đai...) đối với các doanh nghiệp trong việc đầu tư cơ sở hạ tầng hàng không; tạo điều kiện để các doanh nghiệp chủ động trong việc bố trí và huy động nguồn vốn hợp pháp, đặc biệt phát hành trái phiếu doanh nghiệp, tăng vốn điều lệ, liên kết trong việc đầu tư ngoài ngành để triển khai đầu tư.
Ông Trần Kim Chung, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý Kinh tế Trung ương dẫn chứng từ khi có đầu tư tư nhân phát triển sân bay Vân Đồn, vấn đề huy động vốn, các thành phần kinh tế cần được đặt ra một cách tường minh và việc bố trí vốn phát triển cơ sở hạ tầng hiện nay không còn đơn giản chỉ dựa vào nguồn đầu tư công.
Do đó, ông Chung góp ý cần có những giả định, các phương án huy động khác nhau đối với các cấp độ khác nhau của các sân bay và phương án tài chính của các sân bay khác nhau… Việc huy động các thành phần kinh tế ngoài Nhà nước cần phải được xem là một chủ trương và giải pháp.
“Nhà nước cần cân đối tổng kinh phí đầu tư sân bay trong tổng thể tổng đầu tư cơ sở hạ tầng và phân kỳ từng giai đoạn 5 năm. Mỗi giai đoạn 5 năm có những ưu tiên khác nhau. Vì vậy, phải làm rõ tổng đầu tư cho hạ tầng trong 5 năm và cho từng nhóm sân bay. Đây là một trong những vấn đề then chốt cho việc cân đối giữa mong muốn và khả năng thực tế. Quy hoạch cần có nhiều tính khả thi mà một trong những điều kiện then chốt là vốn và đất đai”, ông Chung nói.
Ông Phạm Bích San, Viện Nghiên cứu và Tư vấn về phát triển lại cho rằng có thể sẽ là tốt hơn nếu trong 10 năm tới chỉ nên tập trung xây dựng một số sân bay trọng điểm đủ tốt và có thể cân đối được thu chi để vận hành đồng thời nâng cao khả năng vận tải của hệ thống đường bộ kết nối giữa các cảng hàng không, điều đó dẫn đến nâng cao hiệu quả đầu tư công.
Ông San cũng cảnh báo những loại hình có thể làm thay đổi tính chất vận chuyển hành khách như đường sắt tốc độ cao, đường cao tốc, xe tự lái hay taxi bay cũng nên tính tới trong quy hoạch khi không nhất thiết phải có quá nhiều sân bay và cảng hàng không./.