Nuôi chí phục hồi dòng tranh cổ

Sau hơn 30 năm dạy học ở Đại học Mỹ thuật Hà Nội, năm 1990, ông Nguyễn Đăng Chế nghỉ hưu về sống cùng con cháu tại làng Hồ. Ba mươi năm xa quê cũng là quãng thời gian dài để làng Hồ có nhiều thay đổi. Không còn cái cảnh bến nước con đò cứ nhộn nhịp vào những ngày chợ phiên, không còn cái cảnh trẻ em tíu tít giúp mẹ mang tranh ra sân phơi nắng. Chợ xưa giờ đìu hiu lạnh lẽo chỉ còn trơ trọi lại bãi đất hoang vắng, sông xưa giờ vắng hẳn những chuyến đó.

ban-khac-go-am-ban-duoc-nhi.jpg

Bản khắc gỗ duong bản được du khách ưa thích

Làng Hồ không còn cảnh yên bình của một vùng quê Kinh Bắc, thay vào đó là sự ồn ào náo nhiệt từ buổi bình minh. Xe máy, xe tải vào làng nườm nượp. Làng Hồ đang giàu lên nhờ buôn bán hàng mã. Giờ đây đi khắp thôn, thay cho những bức tranh “gà lợn nét tươi trong”, thay cho “màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp” là màu sắc nhộm nhoạm xanh đỏ của giấy hàng mã.

Tranh tứ bình – là bản khắc cổ có giá trị trong phòng tranh của nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế.
Nhìn những bức tranh quê xếp nép bên giấy hàng mã mà lòng ông quặn thắt nỗi đau, đau vì niềm tự hào quê hương đang dần mai một. Nhưng biết trách ai được khi người dân làng Hồ cũng phải vì cuộc mưu sinh.

Bưu thiếp bằng chất liệu giấy dó cũng là một sáng tạo của nghệ nhân

Nỗi đau ấy cứ ám ảnh cả trong giấc ngủ, khiến ông phải thức trắng canh gần một năm trời. Để xoa dịu niềm đau, đầu năm 1991, ông quyết định dốc hết tiền nong gom góp cả đời trong nghiệp giảng dạy của mình để phục dựng lại dòng tranh cổ. Ông tìm đến từng nhà mua lại những bản khắc gỗ, những thứ mà khi chuyển sang làm hàng mã với nhiều người chỉ là kỷ niệm, còn với một số người giờ chỉ là những đống gỗ tàn.

Giấy dó là chất liệu tạo nên nét đặc trưng riêng cho tranh Đông Hồ

Cũng nhờ bao công sức mày mò, không quản khó nhọc tìm kiếm ông đã sưu tầm được hơn 100 bản khắc cổ với tuổi thọ hàng trăm năm, hàng ngàn bản khắc mới và gần 200 mẫu tranh các loại, trong đó quý nhất là bộ tranh Thạch Sanh có từ vài trăm năm trước.

Mỗi bản khắc, một nếp màu

Nhưng mọi chuyện không phải lúc nào cũng suôn sẻ với ông, quãng thời gian 4 năm (1991 - 1995) là lúc đầy khó khăn vất vả. Tranh ông làm ra bán cũng chỉ thoi thóp, tiền thu về cũng không đủ cho tiền mua vật liệu làm tranh. Nhiều người trong gia đình đã thở dài nghĩ đến thất bại. Nhưng ông không nản. Ông tính chuyện vừa làm tranh, vừa làm vàng mã, lấy tiền vàng mã để nuôi tranh. Nhưng với cách làm này cũng chỉ là “lấy ngắn nuôi dài” không mãi như thế được. Tranh cần phải có đầu ra, có thị trường. Bởi vậy, đến bước sang năm 1995 ông tính chuyện đem tranh ra Hà Nội bán cho khách du lịch nước ngoài vì dù sao với họ đây cũng là mặt hàng lạ. Ông đặt một cửa hàng tại 17 phố Chân Cầm, đồng thời nhờ cậy bạn bè trong ngành Mỹ thuật giới thiệu. Khách hàng đến với ông ngày một đông, đặc biệt là các khách nước ngoài. Họ thật sự bất ngờ với dòng tranh Đông Hồ vì nét chân chất mộc mạc, lạ lẫm và thú vị nhất là khi ông giới thiệu cách làm tranh, ý nghĩa của từng bức tranh cho họ.

Làm giàu từ nghề tranh Đông Hồ

Một góc phòng tranh của nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế

Khi lượng khách, đặc biệt là khách nước ngoài đến với cửa hàng tranh ngày một đông, để đa dạng sản phẩm cho khách hàng lựa chọn, ông quyết định sáng tạo ra nhiều sản phẩm độc đáo dựa trên chất liệu giấy dó cũng như cách làm truyền thống của dòng tranh Đông Hồ, và nó thực sự thu hút được quan tâm của khách hàng, của nhiều người am hiểu và yêu nghệ thuật.

Nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế đang giải thích ý nghĩa từng bức tranh cho khách tham quan.

Ông đưa nhiều bức tranh Đông Hồ cổ nổi tiếng như: Mẹ con đàn lợn, Em bé cưỡi trâu, Đánh ghen, Hứng dừa… lên lịch, lên những tấm thiệp hoặc bìa những cuốn sổ với nhiều kích cỡ khác nhau đóng bằng giấy điệp hay những bản khắc gỗ cỡ nhỏ (dương bản) để phục vụ du khách tham quan mua về làm kỷ niệm. Nhờ vậy, các sản phẩm tranh của ông làm ra được bán đi rất nhiều nơi, cả trong và ngoài nước.

Cuốn sổ lưu niệm bằng giấy dó gây thích thú cho khách tham quan

Ông Chế vui vẻ cho biết: “Những sản phẩm sáng tạo không làm mất đi bản sắc của dòng tranh mà còn khiến rất nhiều người ưa thích”. Có ngày ông bán được hơn 6.000 tấm lịch. Những ngày đông khách, chỉ riêng bán tranh ông cũng thu được 20-30 chục triệu đồng/ngày. Đặc biệt trong thời gian gần đây, một số khách công ty còn đặt tranh số lượng lớn với ông để xuất khẩu sang nước ngoài. Hiện bên cạnh thị trường trong nước ông Chế còn xuất khẩu trực tiếp ra thị trường Nhật Bản, Mỹ, Trung Quốc, Đài Loan… Giờ gia đình ông với hơn 15 nhân công tất cả đều chuyển sang làm tranh. Nhưng ông vẫn lo lắng: “Có hợp đồng đặt chúng tôi tới hàng triệu bức tranh, chắc lúc đó tôi phải tuyển thêm lao động”.

Tháng 3/2007, ông và 5 người con đứng ra thành lập doanh nghiệp tư nhân tranh dân gian Đông Hồ Nguyễn Đăng Chế. Ông tiếp tục xây dựng Trung tâm lưu giữ và bảo tồn tranh dân gian Đông Hồ tại làng Hồ. Trung tâm có 3 hạng mục công trình là khu sản xuất, khu trưng bày và khu triển lãm tranh với số vốn đầu tư lên đến gần 3 tỷ đồng. Ông Chế dự định sẽ phát triển trung tâm tranh dân gian Đông Hồ thành một khu du lịch sinh thái, kết hợp mở các lớp dạy nghề làm tranh truyền thống cho con em trong làng và những người có niềm say mê hứng thú đối với nghề tranh truyền thống mang đậm tính nhân văn này.

Nỗi buồn nghệ nhân

Không chỉ khôi phục lại được dòng tranh mà bao nhiêu năm ông ấp ủ và gia đình ông, cả ba thế hệ từ ông, con, cháu đang sống sung túc nhờ làm tranh. Tuy nhiên trong sâu thẳm tâm hồn của nghệ nhân già này vẫn còn đau đáu những nỗi niềm. Ông tâm sự: “Đã bao nhiêu lần tôi đấu tranh chỉ mong chính quyền trả lại cho chúng tôi cái tên Đông Hồ, nhưng vẫn chưa thấy hồi âm”.

Mỗi lao động có thể làm được hơn 100 bức tranh mỗi ngày.

Ông kể, năm 1960 làng Đông Hồ sáp nhập với hai thôn Tú Khê, Đậu Tú để trở thành xã Đông Khê. Cái tên Làng Đông Hồ cũng dần biến mất. Ông thở dài: “Giờ cứ đi từ đường cái vào đây hỏi làng Đông Hồ chẳng ai biết, thế nên để vào được làng tranh không ít người phải tìm đỏ mắt”. Nhưng cái ông buồn nhất chính là, sự thờ ơ của chính quyền các cấp trong việc giữ gìn, bảo vệ một tài sản mang giá trị tinh thần dân tộc sâu sắc.

Hiện trách nhiệm này đang đè nặng lên đôi vai già nua của những người tâm huyết như ông. Nếu mai đây, không còn những con người tâm huyết ấy, dòng tranh Đông Hồ không biết sẽ đi về đâu!./.