Cách đây 50 năm, quân và dân ta đã làm nên chiến thắng lẫy lừng: Đánh bại hoàn toàn cuộc tập kích chiến lược đường không bằng B-52 mang mật danh “Chiến dịch Linebacker-II” của đế quốc Mỹ vào Thủ đô Hà Nội, Hải Phòng và một số địa phương miền Bắc cuối tháng 12/1972. Chiến thắng đó được ngợi ca là “Trận Điện Biên Phủ trên không”, gây sửng sốt cho nước Mỹ và làm chấn động dư luận thế giới.
Một loạt câu hỏi được đặt ra: Nguyên nhân gì, sức mạnh nào mà một đất nước với tiềm lực kinh tế cũng như quân sự kém rất xa nước Mỹ, chỉ với pháo phòng không, MiG-21 và tên lửa SAM-2 lại có thể bắn rơi hàng loạt máy bay B-52 - niềm tự hào của nền công nghiệp Mỹ?
Những câu hỏi rất đơn giản ấy nhưng vẫn là đại vấn đề thu hút tất cả những người trong cuộc chiến và quan tâm tới cuộc chiến trên khắp thế giới không chỉ suốt 50 năm qua, cho tận tới hôm nay và chắc chắn sẽ còn hấp lực, thậm chí ám ảnh và vật vã đối với không ít người sau này nữa.
Xuyên suốt tất cả mọi câu trả lời đã và đang có, có thể nói gọn lại là: Người Mỹ thất bại ở trận quyết chiến chiến lược này, trước hết và sau cùng là họ chưa biết hết và hiểu thật kỹ lưỡng về văn hóa giữ nước Việt Nam. Bước đầu, có thể hình dung trên 5 phương diện chính yếu:
Thứ nhất, tiên liệu thời thế, định liệu mọi việc, chuẩn bị toàn diện, chủ động đón và đánh giặc từ sớm, từ xa;
Thứ hai, mở tầm viễn kiến, trau dồi trí tuệ, rèn đúc bản lĩnh và tôi luyện khí phách quyết đánh thắng giặc, trước hết cho Bộ đội Phòng không - Không quân;
Thứ ba, chủ động và không ngừng xây dựng sức mạnh tổng hợp đồng bộ, thống nhất của lực lượng vũ trang ba thứ quân trên nền tảng toàn dân đánh giặc;
Thứ tư, kiên định đường lối lãnh đạo của Đảng, giữ vững ý chí quyết chiến, quyết thắng, bảo vệ nhân dân và đánh giặc bằng tất cả những gì có thể;
Và cuối cùng là, nương theo và hành động trong ngọn gió chủ đạo hòa bình của thời đại thâu hóa sự giúp đỡ to lớn của bạn bè quốc tế, nhân lên sức mạnh ủng hộ đông đảo của dư luận tiến bộ trên thế giới.
Trong 5 phương diện chính yếu nói trên, tầm nhìn chiến lược sáng suốt và định liệu mọi việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, để từ đó có sự chủ động về tinh thần, ý chí và sự chuẩn bị chu đáo về mọi mặt, nhất là phương thức và nghệ thuật đánh giặc - một trong những yếu tố quan trọng, một bước phát triển mới về khoa học quân sự Việt Nam đã giúp chúng ta tiên liệu trước 10 năm để chuẩn bị kế sách và thực lực lâu dài đánh bại cuộc tập kích đường không chiến lược chủ yếu bằng B-52 của đế quốc Mỹ trên bầu trời Hà Nội vào cuối tháng 12/1972, làm nên chiến thắng lịch sử “Điện Biên Phủ trên không”, gây rúng động cả nước Mỹ và nhân loại tiến bộ trên toàn thế giới, buộc Mỹ phải quay trở lại bàn đàm phán trong thế bị thua trận, chấp nhận rút quân khỏi Việt Nam.
Không phải ngẫu nhiên Chủ tịch Hồ Chí Minh lại dành sự quan tâm đặc biệt tới B-52. Người đã nghiên cứu rất kỹ về các kết cục chiến tranh mà người Mỹ tiến hành: Các thành phố Dressden của nước Đức; Hirosima và Nagasaki của nước Nhật; Bình Nhưỡng của Triều Tiên đều đã trở thành những đống tro tàn trước khi kết thúc chiến tranh bởi các cuộc không kích của “pháo đài bay” B-29. Kịch bản ấy đối với Hà Nội cũng không thể loại trừ. Người căn dặn: Bất kỳ hòa bình hoặc chiến tranh, ta cũng phải nắm vững chủ động, phải thấy trước, chuẩn bị trước.
Chính vì vậy, ngay từ năm 1962, khi giao nhiệm vụ cho đồng chí Phùng Thế Tài, Người nói: Bây giờ chú là Tư lệnh Phòng không, vậy chú đã biết gì về B-52 chưa? Nói thế thôi chứ chú có biết cũng chưa làm gì được nó. Nó bay cao trên 10 cây số mà trong tay chú hiện nay mới chỉ có cao xạ thôi. Nhưng ngay từ nay, chú phải theo dõi chặt chẽ và thường xuyên quan tâm đến loại máy bay B-52 này.
Nên nhớ, mối quan tâm về B-52 được Người chỉ ra ngay từ khi đế quốc Mỹ còn chưa trực tiếp can thiệp bằng B-52 vào miền Nam.
Ngày 19/7/1965, Người đến thăm đơn vị súng máy tự hành thuộc Trung đoàn Pháo Phòng không 234 tại Sân bay Bạch Mai và dặn: Dù đế quốc Mỹ có lắm súng, nhiều tiền. Dù chúng có B-57, B-52, hay “bê” gì, đi chăng nữa ta cũng đánh. Từng ấy máy bay, từng ấy quân Mỹ chứ nhiều hơn nữa ta cũng đánh, mà đã đánh là nhất định thắng. Việc Bác đoán trước bắn rơi B-52 là xuất phát từ niềm tin tuyệt đối của Người vào lòng dũng cảm, trí tuệ, khả năng sáng tạo của bộ đội ta.
Ngày 24/3/1966, Người đến thăm Quân chủng, xem xác chiếc máy bay trinh sát tầm cao 18.000m bị tên lửa ta bắn rơi và nói: “Mỹ đã đưa B-52 vào chiến trường Việt Nam, liên tiếp gây tội ác với đồng bào ta ở miền Nam. Ngay từ bây giờ các chú phải nghiên cứu, chuẩn bị đối phó với B-52, vì sớm hay muộn, Mỹ cũng sẽ đưa B-52 ra đánh phá miền Bắc… Nhiệm vụ này, Bác giao cho các chú. Chúng ta phải quyết tâm bắn rơi máy bay B-52, phải quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược…”.
Ngày 12/4/1966, đúng như dự báo của Bác, đế quốc Mỹ dùng máy bay B-52 ném bom đèo Mụ Giạ (Quảng Bình) và mở rộng ra các mục tiêu quân sự, dân sự và trọng điểm giao thông trên địa bàn Quân khu 4 nhằm phá hoại, ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho cách mạng miền Nam.
Tháng 6/1966, Bộ Chính trị họp dưới sự chủ tọa của Bác Hồ đã thống nhất chủ trương “Sớm đưa tên lửa Phòng không vào nam Quân khu 4 để nghiên cứu đánh B-52”. Người đã chỉ thị cho Bộ đội Phòng không - Không quân: Muốn thắng địch thì phải hiểu địch, nắm chắc địch, muốn bắt cọp phải vào tận hang.
Tháng 8/1966, thực hiện ý kiến chỉ đạo của Bác, Quân chủng đã bí mật đưa lực lượng tên lửa và radaz vào chiến trường Vĩnh Linh, nghiên cứu quy luật hoạt động và tìm cách đánh B-52.
Trên tuyến đầu Vĩnh Linh, ngày 17/9/1967, ta đánh liên tiếp hai trận, tiêu diệt 2 máy bay B-52. Đây là chiến công lớn và đặc biệt quan trọng, khẳng định tên lửa của ta có thể quật ngã “Siêu pháo đài bay”.
Cuối năm 1967, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Sớm muộn rồi đế quốc Mỹ cũng đưa B-52 ra đánh Hà Nội, rồi có thua nó mới chịu thua... Phải dự kiến trước mọi tình huống càng sớm - càng tốt, để có thời gian suy nghĩ chuẩn bị. Nhớ là trước khi thua ở Triều Tiên, đế quốc Mỹ đã hủy diệt Bình Nhưỡng, ở Việt Nam, Mỹ sẽ nhất định thua. Nhưng nó chỉ chịu thua sau khi thua trên bầu trời Hà Nội.
Một trong những nhân tố quan trọng làm nên chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không” là chúng ta đã phát huy tốt sức mạnh tổng hợp của các lực lượng tham gia chiến dịch, nhất là lực lượng phòng không ba thứ quân, mà nòng cốt là Quân chủng Phòng không - Không quân.
Với tầm nhìn chiến lược, tư duy quân sự sắc sảo, ngay sau khi đế quốc Mỹ sử dụng máy bay B-52 tham chiến ở miền Nam, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương chủ trương xây dựng các đơn vị tên lửa, radaz, không quân và một số đơn vị bảo đảm kỹ thuật vững mạnh, kết hợp với củng cố lực lượng phòng không địa phương rộng khắp ở miền Bắc, sẵn sàng đối phó các bước leo thang chiến tranh của địch. Đây là sự chuẩn bị rất quan trọng nhằm tạo nên thế và lực tương xứng đối phó hiệu quả với “pháo đài bay B-52”; đồng thời, xây dựng thế trận phòng không liên hoàn, vững chắc tạo nên “lưới lửa phòng không” đánh địch rộng khắp, có chiều sâu trên mặt trận đối không từ nhiều hướng, ở mọi độ cao và mọi lúc.
Toàn bộ sự chủ động chuẩn bị đó càng chứng tỏ nét đặc sắc trong việc bố trí, tổ chức đánh rộng khắp, nhiều loại máy bay địch, nhưng tập trung vào máy bay B-52 trên khu vực tác chiến chủ yếu là địa bàn Thủ đô Hà Nội, với bộ đội phòng không - không quân làm nòng cốt, bộ đội tên lửa làm chủ công, hiệp đồng chiến đấu chặt chẽ, lựa chọn cách đánh phù hợp. Trên nền sự chuẩn bị đó, nghệ thuật tác chiến phòng không đặc sắc, sử dụng lực lượng hợp lý càng phát huy sự sáng tạo, linh hoạt và hiệu quả của bộ đội ta trong các trận then chốt quyết định, làm thất bại hoàn toàn cuộc tập kích chiến lược đường không của đế quốc Mỹ.
Trong cuộc tập kích chiến lược đường không cuối năm 1972, đế quốc Mỹ sử dụng lực lượng lớn máy bay chiến lược B-52, một trong bộ ba vũ khí răn đe chiến lược của chúng, hòng đưa “Hà Nội trở lại thời kỳ đồ đá”, đè bẹp tinh thần, ý chí chiến đấu của nhân dân ta và mưu chiếm lợi thế để ép ta trong đàm phán, song đã thất bại thảm hại.
Nhân tố quan trọng, quyết định nhất là sự lãnh đạo của Đảng, với những quyết sách độc lập, sáng tạo, đúng đắn và kịp thời, mà hạt nhân của nó là tư tưởng chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện, dựa vào sức mình là chính.
Dù Việt Nam nước không lớn, quân đội Việt Nam không có nhiều vũ khí, nhưng người Việt Nam có nghệ thuật quân sự của riêng mình. Đó là nghệ thuật quân sự dựa vào nhân dân, lấy đoàn kết và quyết tâm làm sức mạnh. Chiến thắng này là kết quả của sức mạnh tổng hợp trên nền móng truyền thống mấy ngàn năm giữ nước của dân tộc: từ ý chí quyết tâm đến cách đánh sáng tạo; sơ tán để bảo vệ nhân dân, giữ gìn lực lượng dự bị hỗ trợ chiến đấu; đoàn kết toàn dân tộc đến sức mạnh ủng hộ quốc tế trong sáng. Đây là đạo lý giữ nước Việt Nam. Theo đó, nhân dân Thủ đô và khắp các tỉnh thành phố là nền móng hậu cần chăm lo bộ đội và một lưới lửa phòng không khủng khiếp nhất xưa nay trên thế giới do các quân, binh chủng tới lực lượng dân quân tự vệ đông đảo giăng lên bảo vệ bầu trời Hà Nội và vây bủa không lực Hoa Kỳ từ mọi phương hướng, ở mọi tầng trời, như chính sự thú nhận của người Mỹ.
Thắng lợi của “Điện Biên Phủ trên không” là sự dồn tụ và tỏa sáng của tư tưởng chiến lược tiến công, tính tích cực chủ động, mưu trí sáng tạo của quân và dân ta. Qua chiến dịch này, với ý chí bất khuất không biết sợ giặc, quyết tâm đánh giặc không gì có thể chuyển lay, Việt Nam giáng một đòn quyết định, thổi tan cái gọi là “huyền thoại bất khả chiến bại” của không lực, nòng cốt là lực lượng không quân chiến lược Hoa Kỳ. Lần đầu, trong lịch sử 30 năm chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc (1945 - 1975), Việt Nam can trường tiến hành một chiến dịch phòng không quy mô lớn nhất chống lại một cuộc tập kích chiến lược bằng B-52 điên cuồng nhất, dã man nhất của đế quốc Mỹ - cuộc tập kích quy mô chưa từng có trong lịch sử chiến tranh hiện đại trên thế giới.
Trận quyết chiến chiến lược “Điện Biên Phủ trên không” thêm một lần nữa chứng minh chân lý giản dị: “Không quân đội nào, không khí giới nào có thể đánh ngã được tinh thần hy sinh của toàn thể một dân tộc”, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói. Với chiến thắng này, khẳng định sự phát triển mới của khoa học quân sự Việt Nam, làm phong phú hơn sức mạnh tiềm tàng và vô tận của văn hóa giữ nước Việt Nam.
Xuyên suốt và bao trùm lên hết thảy, đó là biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam - sức sống bất khuất của văn hóa giữ nước đặc sắc Việt Nam - trong thời đại Hồ Chí Minh./.