Bản thân khái niệm “từ Hán Việt” vốn chứa nhiều mâu thuẫn và thuộc diện gây tranh cãi. Ở đây tôi tạm dùng thuật ngữ này theo cách hiểu của số đông hiện nay.

nam_quoc_son_ha_2_okgg.jpg
Bản thư pháp chữ Hán của bài thơ thần “Nam quốc sơn hà”  - bài thơ được coi là bản Tuyên ngôn Độc lập đầu tiên của dân tộc Việt Nam. Ảnh: vannghecuocsong.

Qua quan sát, tôi thấy một bộ phận đáng kể dân mình, bao gồm cả các biên tập viên, tỏ ra coi thường hoặc e sợ lớp “từ Hán Việt” này. Họ cho rằng lớp từ này là ngoại lai, gắn với các thế lực ngoại bang từng áp bức dân tộc Việt trong quá khứ. Theo họ, dùng “từ Hán Việt” nhiều là sính ngoại, lai căng, kệch cỡm, là thiếutinh thần dân tộc, là làm mất đi sự “trong sáng” của tiếng Việt. Sự cay nghiệt đối với “từ Hán Việt” diễn ra ở nhiều cấp độ khác nhau.

Nhưng liệu sự thật có hoàn toàn đúng như cách phê phán này?

Ưu điểm lớn của “từ Hán Việt” và trật tự “Hán Việt”

Dù ai đó ghét bỏ “từ Hán Việt” thì họ cũng không thể phủ nhận vai trò to lớn của lớp từ này (hay rộng hơn là các “từ tố Hán Việt” và trật tự phụ-chính) đối với ngôn ngữ và tư duy dân tộc.

Thứ nhất, có những từ mà “tiếng Việt thuần” không hề có thuật ngữ tương đương, đó thường là các từ mang tính chất trừu tượng, bao gồm cả các từ cơ bản, trong các lĩnh vực khoa học, triết học, chính trị, nghệ thuật… Theo một số học giả thì lớp “từ Hán Việt” chiếm tới 70% hoặc chí ít là 60% kho từ tiếng Việt.

Thứ hai, trong trường hợp có “từ thuần Việt” tương ứng thì các “từ Hán Việt” lại có ưu điểm chính xác hơn, chặt chẽ hơn, khái quát hơn, và súc tích hơn (trong khi đó, yếu tố thuần Việt thường lỏng lẻo hơn). Các từ tố “Hán Việt” có năng lực ghép rất linh hoạt và dồi dào để sản sinh ra các từ ghép vừa mới vừa ngắn gọn vừa thống nhất. Nếu dùng yếu tố “thuần Việt” thì nhiều khi phải dùng cả cụm từ dài mang tính giải thích.

Đây là lý do mà các yếu tố “Hán Việt” cùng trật tự phụ-chính (đặc trưng của danh ngữ tiếng Hán) thường được sử dụng một cách áp đảo để xây dựng hệ thống thuật ngữ chuyên ngành ở Việt Nam (bên cạnh các yếu tố Latin). Nếu được phép so sánh thì yếu tố Hán trong từ vựng tiếng Việt na ná yếu tố Latin và Hy Lạp (thậm chí cả Arab) trong từ vựng tiếng Anh.

>> Xem thêm: Phản biện về tiếng Việt “lệch chuẩn”

Chẳng hạn, đối với người Việt, “yêu nước” có thể hiểu theo 2 nghĩa (yêu đất nước và yêu thứ vật chất gọi là nước với công thức hóa học là H20), còn “ái quốc” chỉ có một nghĩa (yêu đất nước). “Thai nhi” thì ngắn gọn hơn cụm từ “đứa con còn trong bụng mẹ” (hoặc chí ít là “con trong bụng”). “Pháo kích” = “đánh bằng pháo, sử dụng pháo để tấn công”. Rồi, “quân phục” = “trang phục quân đội/quân sự, đồng phục quân đội/quân sự” (nhưng e hèm, cái đằng sau dấu “=” này cũng là cụm các “từ Hán Việt” nốt!). “Sơn pháo” = “loại pháo chuyên dùng ở vùng rừng núi”. Và giới chuyên môn chỉ nói “Việt ngữ học”, chứ không nói “tiếng Việt học”.

Tương tự, bình thường chúng ta sẽ không thể nói “đứng một mình” thay cho “độc lập”, “đánh chạy/đánh rong chơi” thay cho “du kích”.

Thứ ba, do sử dụng từ tố khác và trật tự khác nên “từ Hán Việt” sẽ tránh được tình trạng lặp và có thể có phần hơi lủng củng khi chỉ dùng yếu tố “thuần Việt”. So sánh: “Phi cơ bay qua vùng A/Máy bay bay qua vùng A”, “Xạ thủ bắn 2 loạt đạn/Người bắn bắn 2 loạt đạn”, “Các oanh tạc cơ ném bom xuống mục tiêu X/Các máy bay ném bom ném bom xuống mục tiêu X”. Trong trường hợp “chiến thuật Việt Nam/cách đánh Việt Nam” thì cái thứ 1 chỉ có một cách hiểu, trong khi cái thứ 2 có thể hiểu theo 2 nghĩa: 1- cách đánh của Việt Nam; 2- cách thức để đánh Việt Nam. Còn đối với danh ngữ “máy bay ném bom của Mỹ”, người đọc sẽ phân vân không rõ liệu “của Mỹ” là định ngữ của riêng “bom” hay của cả cụm “máy bay ném bom” (với “máy bay” là thành tố trung tâm).

Thứ tư, hệ thống “từ Hán Việt” mang sắc thái riêng, thường là trang nhã, trang trọng hoặc văn chương, cổ kính (tùy theo ý đồ diễn đạt). Chẳng hạn sẽ rất “thô” nếu vì lý do bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt mà thay từ “sinh” bằng “đẻ”, “phu nhân” bằng “vợ”, và “an tọa” bằng “ngồi yên/xuống [vào chỗ]” để tạo ra những câu như thế này: “Đồng chí XYZ đẻ ra và lớn lên trong một gia đình giàu truyền thống cách mạng”, “Xin mời Ngài Tổng thống cùng vợ bước lên lễ đài!”, hay “Kính mời các vị đại biểu ngồi yên [vào chỗ]”. Tình hình tương tự xảy ra với cặp “nhà báo nữ/nhà báo gái”.

Thứ năm, trong trường hợp “thuần Việt” và “Hán Việt” ngang hàng thì rõ ràng lớp “từ Hán Việt” vẫn có tác dụng giúp tiếng Việt của chúng ta thêm phong phú và tinh tế với nhiều phương tiện biểu đạt, tránh sự đơn điệu, nhàm chán. Các nhà văn có lẽ rõ điều này hơn ai hết. (Tương tự, một nguyên nhân khiến tiếng Anh phong phú vào hàng nhất nhì thế giới là nó sở hữu một lượng lớn từ đồng nghĩa vay mượn từ nhiều ngôn ngữ khác nhau).

Điều vô lý

Dù đóng góp quan trọng cho ngôn ngữ Việt và tư duy Việt, lớp “từ Hán Việt” lại có số phận long đong giống như dân ngụ cư hay công dân hạng 2 vậy.

Giả dụ lớp từ này đúng là có nguồn gốc Hán thật thì việc chúng ta đối xử với nó như hiện nay đã thật sự công bằng chưa? Ở đây có mấy vấn đề cần bàn:

Thứ nhất, các “từ thuần Việt” có thực sự tất cả đều “thuần Việt” không?

Sự thực là có nhiều từ rất cơ bản, được sử dụng trong lời ăn tiếng nói hàng ngày mà nhiều người ngỡ là thuần Việt, như “đầu” (trong “đầu tóc”), “ông” (trong “ông/bà”) trên thực tế lại có gốc “Hán”! Ví dụ, chữ “ông” tồn tại trong từ “Hán Việt” “ngư ông”. Chỉ có điều các từ này được “vay mượn” từ rất rất lâu và được sử dụng với tần suất lớn. Một số nhà ngôn ngữ học gọi đây là từ “Hán Việt cổ”. Như vậy ngay ở trong cái gọi là từ “thuần Việt” vẫn có gốc gác ngoại. Vậy chúng ta có cần xử lý nốt số “ngoại lai” này hay không?!

Chữ Nôm (phần chữ to ở dưới) – một sáng tạo của người Việt dùng để ghi tiếng Việt dựa trên các yếu tố chữ Hán. Ảnh: omniglot.com.

Thứ hai, thế nào thì gọi là “thuần Việt”? Nếu chúng ta nhìn nhận vấn đề một cách biện chứng thì sẽ thấy chẳng ngôn ngữ lớn nào trên thế giới tồn tại một cách cô lập cả. Khái niệm thuần Việt cũng mang tính tương đối và phải được xem xét trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Chẳng hạn những từ tiếng Anh mới du nhập vào tiếng Việt như “MC”, “laptop”, “hacker”.. có dấu vết “Ăng-lê” còn đậm. Nhưng nhiều từ tiếng Pháp như “cà vạt”, “xà phòng”… thì đã được Việt hóa rất cao, không khác mấy các từ bản địa. Ở các từ gọi là “Hán Việt”, mức độ Việt hóa còn cao hơn nữa và có tính hệ thống.

Khái niệm “Hán Việt” hàm chứa một nét nghĩa khá nguy hiểm - rằng đây là tiếng nước ngoài do người Việt sử dụng! Nhưng thực tế ta đâu có nói tiếng nước ngoài mà vẫn nói tiếng Việt. Đây hoàn toàn không phải là một phiên bản của tiếng Hán hay tiếng Quan thoại. Các từ “Hán Việt” đó đã trở thành một phần máu thịt trong hệ thống của Việt ngữ. Tiếng Việt và người Việt hoàn toàn chế ngự lớp từ “Hán Việt” đó (trên các phương diện ngữ âm, ngữ nghĩa và ngữ pháp), chủ động bắt nó phải phục tùng mình một cách hiệu quả. Có nhiều từ “Hán Việt” đã bị đảo trật tự các yếu tố bên trong hoặc thay đổi ngữ nghĩa so với các từ tương đương trong tiếng Hán. Thí dụ, từ “thủ đoạn” trong tiếng Hán mang sắc thái trung tính, sang tiếng Việt nó có thêm sắc thái xấu (phổ biến) bên cạnh sắc thái trung tính. Còn từ “truyền hình” là sáng tạo của người Việt dựa trên các yếu tố “Hán Việt” (thuật ngữ tương ứng của người Hán là “điện thị”).

Và còn nhiều ví dụ nữa về các trường hợp từ “thuần Việt” (và cách nói “thuần Việt”) được sử dụng áp đảo so với từ “Hán Việt”, như chúng ta chỉ nói “Bộ/Sở/Công ty Xây dựng” chứ không nói “Bộ/Sở/Công ty Kiến thiết”. Tương tự, người ta cũng chỉ nói “công ty cầu đường” và “ngành đường sắt” chứ chả ai nói “công ty kiều lộ” hay “ngành thiết lộ”. “Cảng biển” và “chủ nghĩa yêu nước” được nói nhiều hơn là “hải cảng” và “chủ nghĩa ái quốc”. Người Việt hầu hết nói “tàu ngầm” chứ hiếm khi nói “tiềm thủy đĩnh” như người Trung Quốc. Theo trật tự tiếng Hán, phải nói “chấn tâm” (tâm của động đất), nhưng người Việt chủ yếu nói “tâm chấn”. Tức là ngôn ngữ có quy luật vận động riêng, không phụ thuộc ý muốn chủ quan của một cá nhân nào đó.

Nói chung, không chỉ ngôn ngữ đâu, kể cả tên lửa Liên Xô, súng trường Trung Quốc hay xe đạp của Pháp (xe Peugeot) mà vào tay “ông Việt Nam” thì “thần thái” sẽ khác.

Thứ ba, người ta thường chỉ trích lớp từ “Hán Việt” là ngoại lai mà quên rằng đồng bào người Hoa là một trong 54 dân tộc anh em cùng chung sống trên lãnh thổ Việt Nam. Ngôn ngữ riêng của bà con người Hoa cũng là ngôn ngữ quốc nội, dù đó không phải là tiếng phổ thông.

Thuyết mới

Gần đây một số nhà nghiên cứu người Việt trên tinh thần khoa học và tự tôn dân tộc đã khẳng định rằng văn hóa Việt có những nét bản sắc riêng khu biệt với văn hóa Trung Hoa, và ngôn ngữ Việt không chịu ảnh hưởng mạnh từ ngôn ngữ Trung Hoa. Các nhà nghiên cứu này cho rằng lớp từ “Hán Việt” không tồn tại. Theo họ, chính người Hán đã vay mượn từ vựng của người Việt, và tiếng Việt là một cơ sở quan trọng hình thành nên tiếng Hán. Không những vậy, họ còn cho rằng đến cả chữ Hán cũng bắt nguồn từ nhóm Bách Việt (các tộc người Việt, sinh sống ở Việt Nam và khu vực miền nam của Trung Quốc trước đây).

Thuyết này không phải là không có lý. Người Hán vốn nằm giữa địa bàn của người Mông Cổ ở phương bắc và người Bách Việt ở phương nam. Lịch sử Trung Quốc là lịch sử thâu tóm lãnh thổ và thâu hóa văn hóa của các dân tộc nhỏ yếu hơn. Vùng Hoa Nam rộng lớn (từ sông Dương Tử trở xuống) vốn là nơi sinh sống của nhóm Bách Việt và đã bị hoàng đế khét tiếng Tần Thủy Hoàng thôn tính.

Nếu thuyết về cội nguồn “từ Hán Việt” nêu trên mà đúng thì về mặt lịch sử, cái gọi là “từ Hán Việt” cũng hoàn toàn thuộc về dân tộc Việt.

Nhìn ra thế giới

Các nước Mỹ và Úc ban đầu là những vùng mà người Anh di cư sang, khai phá hoặc chiếm lấy từ người bản địa. Lúc đầu các vùng này đều có mối quan hệ chặt chẽ với Anh Quốc (riêng Úc tới nay vẫn coi Nữ hoàng Anh (UK) đồng thời là nữ hoàng của mình, lá cờ của họ chứa đựng quốc kỳ Anh). Thế nhưng việc chung cội nguồn văn hóa và cùng nói tiếng Anh (English) vẫn không ngăn được các thực thể này trở thành các nước độc lập. Riêng Mỹ đã phát động cả một cuộc chiến tranh cách mạng để tách ra khỏi Đế chế Anh. Ngày nay người Mỹ và Úc vẫn nói tiếng Anh như ngôn ngữ mẹ đẻ của họ nhưng Mỹ và Úc không phải là quốc gia-dân tộc Anh.

Một trường hợp nữa là hệ thống 19 nước nói tiếng Tây Ban Nha ở châu Mỹ Latin  – những nước này từ lâu không còn là một bộ phận của nước Tây Ban Nha ở châu Âu nữa dù 20 nước này cùng chung một ngôn ngữ. Không những vậy, 19 nước châu Mỹ Latin nói tiếng Tây Ban Nha kia cũng không sáp nhập với nhau thành một quốc gia dù cùng nói một ngôn ngữ, cùng chung một cội nguồn văn hóa và nằm cạnh nhau về mặt địa lý (ở vùng Nam Mỹ và Trung Mỹ). Lịch sử vẫn có quy luật vận động riêng của nó.

Trung Đông đại bộ phận các nước nói tiếng Arab nhưng các nước này hiện nay không thống nhất thành một dân tộc Arab và một quốc gia Arab.

Ở Bắc Phi, người Ai Cập thậm chí bỏ cả tiếng mẹ đẻ của họ để chuyển sang dùng tiếng Arab. Nhưng đối với thế giới, dân tộc Ai Cập vẫn là dân tộc Ai Cập với các nét khác biệt với các dân tộc Trung Đông, dù cho hiện nay một bộ phận người Ai Cập tự nhận mình là người Arab.

Ở Đông Nam Á, hai nước Malaysia và Indonesia cùng nói chung một thứ tiếng Mã Lai (ở nước thứ nhất, ngôn ngữ này có tên gọi là Bahasa Malaysia, ở nước thứ 2 thì được gọi là Bahasa Indonesia) nhưng đây vẫn là 2 dân tộc riêng, 2 quốc gia riêng. Tương tự, Singapore nói tiếng Hán, một tỷ lệ lớn dân cư là người Hoa, nhưng nước này không tự nhận mình là một bộ phận lãnh thổ của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.

Các trường hợp trên chứng tỏ một điều rằng nhiều dân tộc, nhiều quốc gia có thể cùng chung một ngôn ngữ, và ngôn ngữ chỉ là một khía cạnh của chủ nghĩa dân tộc.

Tinh thần Việt

Ngày nay khó ai có thể nghi ngờ tinh thần dân tộc “ngút trời” của người Nhật Bản. Tuy “nhập Âu thoát Á”, người Nhật vẫn tôn trọng truyền thống và có ý thức gìn giữ rất tốt bản sắc của họ. Với chủ nghĩa dân tộc cực đoan, họ còn từng tham gia Chiến tranh Thế giới thứ nhất và thứ hai. Đến nay quan hệ giữa họ và Trung Quốc vẫn căng thẳng do di sản của Thế chiến 2 và vấn đề quần đảo Senkaku/Điếu Ngư. Du khách Nhật khi ra nước ngoài nhìn chung đều rất trật tự và giữ gìn cẩn thận hình ảnh đất nước họ. Khi đối mặt với thảm họa thiên nhiên như động đất và sóng thần, người Nhật đã thể hiện một tinh thần đoàn kết và bản lĩnh Nhật mà cả thế giới phải nể phục. Nhật Bản còn đóng góp cho văn minh nhân loại bằng những phát triển công nghệ đầy sáng tạo.

Các Hán tự được sử dụng phổ biến trong báo chí Nhật Bản. (Ảnh chụp màn hình website báo Mainichi – một trong những tờ báo lớn nhất Nhật Bản).

Ấy vậy mà kho từ tiếng Nhật lại bao gồm rất nhiều từ “Hán-Nhật”. Không những thế, quốc gia Nhật Bản còn lấy Hán tự (Kanji) làm chữ viết chính thức và áp đảo của họ trong mọi mặt đời sống. Hiện không có dấu hiệu nào cho thấy Nhật Bản sẽ bỏ chữ Hán để chuyển sang dùng hoàn toàn chữ Hiragana và Katakana (2 loại chữ ghi âm tiết do họ tạo ra dựa trên Hán tự) cũng như chữ Latin. Cũng xin lưu ý, khác với Hàn Quốc/Triều Tiên, Nhật Bản chưa bao giờ bị một triều đại Trung Quốc nào cai trị. Do vậy việc “vay mượn” cả từ và chữ này là trên tinh thần tự nguyện khi người Nhật thấy những yếu tố vay mượn đó phục vụ đắc lực cho văn hóa dân tộc.

Thực tế này gợi ý rất có thể yếu tố quyết định trong thành công của Nhật Bản không nằm ở hình thức từ vựng và chữ viết của họ mà là ở tinh thần Nhật Bản, ý chí Nhật Bản.

Trở lại với vấn đề tiếng Việt, nhà trí thức Phạm Quỳnh từng nói “tiếng ta còn, nước ta còn” (tức tiếng Việt còn thì nước Việt còn). Điều này không sai. Ngôn ngữ không chỉ phản ánh văn hóa và lối tư duy mà còn thể hiện sự độc lập chính trị.

Nhưng như các phân tích ở các phần trên, ngôn ngữ Việt tuy quan trọng nhưng chỉ là một phần của cái quan trọng hơn, bao trùm hơn, đó là tinh thần Việt, giá trị Việt, hồn cốt Việt.

Chính nhờ cái tinh thần Việt này mà tiếng Hán khi được đưa vào nước ta bằng gươm đao và vó ngựa xâm lược với mưu đồ đồng hóa đã không tài nào xâm nhập sâu vào cơ cấu xã hội Việt được, chỉ phổ biến ở một bộ phận dân cư thành thị và tầng lớp quan lại làm việc cho chính quyền phương bắc. Mãi đến khi Việt Nam giành độc lập tự chủ hoàn toàn sau 1.000 năm Bắc thuộc thì các từ gốc Hán mới bắt đầu xuất hiện nhiều và chủ động trong tiếng Việt, để phục vụ nhu cầu chấn hưng dân tộc và phát triển đất nước. Hay sau này, khi buộc phải nói tiếng Pháp dưới chế độ thực dân, người Việt vẫn âm thầm và kiên trì nuôi ý chí phục thù, giành lại độc lập dân tộc.

Vậy ngày nay chúng ta phải thể hiện và phát huy tinh thần Việt như thế nào?

Tất nhiên chúng ta có thể và nên cố gắng sử dụng ngôn ngữ Việt chuẩn mực. Phải biết tôn trọng tiếng mẹ đẻ. Những chỗ phải in song ngữ trên lãnh thổ mình thì phải ưu tiên tiếng Việt (không phải tiếng Anh hay tiếng Hán với tư cách là tiếng nước ngoài). Khi ra nước ngoài thì đừng làm xấu hình ảnh người Việt trong mắt người ngoại quốc.

Nhưng quan trọng hơn, chúng ta cần nỗ lực tránh những thói xấu và tiêu cực gây bức xúc ở ngay trong nước mà báo chí đã nêu ra rất nhiều. Chẳng hạn, không thể vì lợi ích nhóm, vì chút lợi ích kinh tế từ các dự án nước ngoài mà phá hủy môi trường thiên nhiên. Nói như đương kim Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, chúng ta quyết không đánh đổi môi trường lấy tăng trưởng bằng mọi giá.

Về phần mình, bà con nông dân có thể bày tỏ tinh thần Việt bằng cách không đổ xô chạy theo các mức “giá hời” ban đầu mà khá nhiều thương lái Trung Quốc tung ra với ý đồ lũng đoạn thị trường, ảnh hưởng xấu đến kinh tế và môi trường đất nước ta, cũng như bản thân họ.

Trong khi đó bà con kinh doanh cần tránh hiện tượng nhập hàng lậu từ Trung Quốc vừa gây hại cho các doanh nghiệp trong nước, vừa có thể đe dọa sức khỏe người Việt.

Và gần gũi hơn, những người trồng rau nào đó hãy chấm dứt trình trạng chia lô: Rau sạch dành cho gia đình mình, còn rau bẩn - “phun thuốc các kiểu” thì để bán cho thiên hạ, sống chết mặc bay.

Tinh thần Việt còn thể hiện rất rõ trong việc nói KHÔNG với các hành động xấu xí như vòi vĩnh bệnh nhân, bán hàng rởm, rút ruột công trình, gian lận bán xăng tại các cây xăng,... cùng muôn vàn các thể loại tham nhũng vặt lẫn tham nhũng lớn khác./.