Có một thực tế nhức nhối tại các KCN, phía sau sự thiếu cân bằng giữa nam và nữ và phía sau những cuộc sống kiểu vợ chồng hờ là những ngôi mộ của những đứa trẻ không được làm người.
Phá thai – chuyện bình thường
Tiếp câu chuyện với các nữ công nhân của Samsung ở KCN Yên Phong, tôi hỏi: “Sống ở môi trường như vậy ai là người dạy các em về sức khỏe sinh sản?” – các em bảo: “Bố mẹ em dạy”. Rồi đùa: “Không được ngồi gần con trai đâu ạ”.
Cô công nhân tên Nữ - người Tĩnh Gia (Thanh Hóa) bẽn lẽn kể lại: “Lần trước em vào viện thăm chị bạn bị ốm. Thấy em ngơ ngác tìm phòng bệnh các bác sĩ đã chỉ ngay khoa sản cho tụi em rồi. Lúc đầu em còn giật mình nhưng bây giờ thì em đã quen rồi, bởi con gái ở KCN này đi phá thai không còn là chuyện hiếm chị ạ”.
Nói về sự quan tâm của công ty với vấn đề này, mấy bạn cũng kể lại, hôm trước Công ty cũng có mời anh Đinh Đoàn (chương trình Cửa sổ tình yêu – Đài TNVN) về nói chuyện về sức khỏe sinh sản. Thế nhưng, mọi người cũng ngại không mấy người dám hỏi. Lý bảo: Có chị đã mạnh dạn đứng lên hỏi anh Đinh Đoàn việc chị đã sống thử như vợ chồng với người yêu được 5 năm rồi nhưng chưa có thai lần nào. Giờ muốn có thai để gia đình bạn trai chấp nhận mà không có được. Còn một chị khác thì nói đã mang thai một lần và đã bỏ đi. Giờ hai anh chị đã tổ chức đám cưới được gần 2 năm mà chưa có con”.
Cũng theo lời kể của các nữ công nhân này, nhiều đồng nghiệp của họ cũng lén đi phá thai nhưng không dám xin nghỉ vì sợ công ty sẽ đuổi việc
Sống trong KTX thì việc ra – vào của công nhân được quản lý chặt chẽ. Còn thuê nhà trọ bên ngoài thì tự do, thoải mái và tùy thuộc vào “bản lĩnh” giữ gìn của từng người. Ngay trong thôn Ô Cách và Trần Xá, nhiều cặp đôi sống với nhau như vợ chồng và chuyện nạo, phá thai không phải là hiếm.
Trong vai một người đi khám thai, tôi vào Phòng khám Duy Vũ, ở ngã tư Ấp Đồn, Yên Trung, Yên Phong, Bắc Ninh. Sau khi khám xong, tôi đặt vấn đề muốn phá thai cho cô cháu đang làm công nhân ở KCN Yên Phong. Khi tôi đặt vấn đề cháu còn nhỏ, lại chưa có chồng con liệu có sợ ảnh hưởng sức khỏe sinh sản. Cô y tá bảo: Chị đợi tối muộn đưa cháu ra đây chúng em giải quyết cho, không sợ ai biết đâu. Nhiều em ra đây làm lắm. Bên em sẽ tư vấn nên uống thuốc hay hút. Phá thai chỉ 500.000 đồng/ca.
Các bà, các chị trong các xóm trọ cho công nhân thuê nhà nhiều khi cũng phải lắc đầu về cách sống của một số nữ công nhân. Thế nhưng, cũng vì đồng tiền, bát gạo, họ xây nhà lên mà không ai thuê thì cũng chẳng biết kiếm sống bằng gì nên đành “nhắm mắt” cho thuê.
Ngoài chuyện phá thai “chui” một cách vô tội vạ, việc phổ biến kiến thức, chăm sóc sức khỏe sinh sản cho các chị, em công nhân cũng là vấn đề còn bỏ ngỏ ở các KCN hiện nay. Làm ca, kíp choán hết thời gian, không thể chăm sóc bản thân. Chỉ đến khi “có chuyện” họ mới tìm đến bác sĩ. Nhiều chị em tâm sự, tiền ăn còn chả đủ thì lấy đâu ra để đi khám bệnh định kỳ, huống hồ là “cái ấy” có viêm nhiễm một tí cũng chẳng chết ai.
Thực tế, các nhà máy, xí nghiệp chỉ quản lý giờ giấc làm việc. Ra khỏi KCN họ phải tự chịu trách nhiệm về cuộc sống của mình. Như lời ông Trương Văn Vượng – Phó Chủ tịch xã Đông Tiến (Yên Phong – Bắc Ninh): Chúng tôi vẫn tuyên truyền từ trạm y tế về tác hại của việc nạo phá thai. Chúng tôi cũng đã đi kiểm tra các phòng khám, hiệu thuốc. Đa số họ bán thuốc bình thường. “Còn việc người ta nạo, phá thai tại địa điểm phòng khám đó thì phải có chuyên môn về kiểm tra. Khi thanh tra y tế bắt được thì mới rõ mười mươi, chứ chỉ nghe thế thôi thì không thể khẳng định” – ông Vượng nói.
Nghĩa trang của hài nhi…
Chúng tôi tìm đến KCN Thăng Long (Hà Nội). Khi bày tỏ mong muốn tìm hiểu về cuộc sống của các nữ công nhân ở đây, đặc biệt là chuyện nạo, phá thai của công nhân nữ, người dân nơi đây chỉ cho chúng tôi tới nghĩa trang xã Kim Chung, huyện Đông Anh, Hà Nội.
Sau một buổi sáng lặn lội đi tìm ông quản trang và chờ đợi, cuối cùng chúng tôi cũng gặp được ông Trần Văn Thế, người dân thôn Tây Bầu làm quản trang tại nghĩa trang xã Kim Chung đã được hơn 4 năm. Trong vai một người mở phòng khám sản phụ khoa, chúng tôi đến để tìm người và tìm nơi để lo việc hậu sự cho các thai nhi như các phòng khám thai bình thường khác vẫn làm.
Sau một hồi trò chuyện, ông Thế cho biết, ở đây có đến 4-5 phòng khám thai, trước kia có 2 nơi để giải quyết "lỡ làng" của công nhân, đó là phòng khám Đa Khoa và phòng khám của bác sĩ Hoàng Văn Nghĩa, nhưng đông nhất vẫn là phòng khám của bác sĩ Nghĩa. Sau một đợt kiểm tra, đến nay phòng khám của bác sĩ Nghĩa đã đi vào hoạt động "bí mật" hơn và có vẻ các cô gái ra - vào phòng khám này cũng kín đáo hơn xưa rất nhiều.
Chôn cất các hài nhi không được chào đời là nỗi ám ảnh với ông Thế (ảnh Đinh Mai)
Các phòng khám ở đây cũng đều làm việc với quản trang về việc chôn cất các thai nhi. Vì vậy nếu cứ có vụ việc là gọi điện cho ông Thế 24/24, bất kể giờ nào cũng đều có một đội đến làm nhanh gọn và chuyên nghiệp.
Theo chân ông Thế ra nghĩa trang xã Kim Chung, chúng tôi được dẫn vào góc trong cùng của nghĩa trang (nơi an táng thai nhi), nằm phía bên ngoài của góc này có khoảng vài chục nấm mồ được xây, chát sơ sài, tất cả đều có bia ghi tên và ngày mất. Nằm sâu nữa bên trong, qua một đường đi cỏ mọc lút đầu người là la liệt những nấm đất chỉ lùm lùm, thâm thấp chồi lên khỏi mặt đất một chút, đó là những nấm mồ không một dòng chữ, không một bia mộ... Những nấm mồ này là do phòng khám làm việc với quản trang và không có ai thừa nhận.
Theo ông Thế, các nấm mồ thai nhi này phần nhiều là 5-6 tháng tuổi, có những thai nhi to thì 7 tháng tuổi. Nhưng do các nữ công nhân đều có hoàn cảnh khó khăn, người thì bạn trai bỏ, người thì bị lừa, người thì do bạn trai không đồng ý cho sinh con… Cũng có những thai nhi do dị tật bẩm sinh, do chết lưu trong bụng mẹ, nhưng số đó cực kì ít.
Làm quản trang là nghề tiếp xúc với nỗi thương tâm, sự chết chóc, nhưng theo ông Thế, có lẽ việc tiếp xúc và chôn cất thai nhi là điều buồn và khó khăn đối với ông./.
***********************************************
Lao động nữ và chuyện 4 không
Các công nhân nữ rất thiếu kiến thức về chăm sóc sức khỏe sinh sản. Chương 10 Bộ Luật Lao động qui định: Hằng năm người sử dụng lao động phải khám sức khỏe cho người lao động trong đó có khám phụ khoa cho lao động nữ. Đa số DN mà chúng tôi đi khảo sát đã thực hiện nhưng chất lượng khám lại là cả một vấn đề. Những trung tâm mà họ thuê khám để đảm bảo được qui chuẩn thì không ai kiểm định cả. Khi phát hiện ra bệnh thì lao động nữ rất chủ quan, thường không chữa trị triệt để. Vì bình thường, để chữa được bệnh phụ khoa thì rất tốn kém. Với mức lương tối thiểu vùng khoảng 2,7 triệu đồng ở vùng 1 để bỏ ra 500.000 đồng đến 1 triệu đồng cho một lần khám là rất khó. Từ đấy các chị em cứ mách nhau dùng thuốc này thuốc kia lại không khỏi.
Về đời sống văn hóa tinh thần, việc tiếp cận các phương tiện thông tin đại chúng cũng không phải là dễ. Bây giờ mạng Internet rất phát triển nhưng với lao động nữ chuyện 4 không: không nhà, không chồng, không con, không sách báo là phổ biến. Nguyên do là thu nhập thấp, đi làm ngày 8 tiếng theo hợp đồng lao động nhưng tăng ca, tăng giờ rất nhiều; việc thuê phòng trọ chật chội, điều kiện cơ sở vật chất, ăn uống sinh hoạt kém… thì nói gì tới đời sống tinh thần.
Khi họ không tiếp cận được thông tin thì ngay cả chuyện yêu đương cũng tràn lan, cảm tính, không biết bạn trai ở đâu vì đều là nhập cư. Đến lúc sinh con, mang thai ngoài ý muốn thì lại tự đi giải quyết. Đã phá thai chui rồi thì không dám đăng ký với người sử dụng lao động là cho tôi được hưởng chế độ thai sản. Theo luật, khi lao động đi giải quyết kế hoạch hóa gia đình thì vẫn được nghỉ từ 7-10 ngày hoặc hơn nữa tùy theo tuổi thai và được hưởng nguyên lương những ngày đó và được bảo hiểm chi trả. Thế nhưng những chị em này hoàn toàn không dám công khai thì sao được hưởng chế độ đây? Về chế độ họ thiệt thòi, về sức khỏe cũng không đảm bảo vì khi họ đến phá thai ở những cơ sở kém chất lượng. Tình trạng nhiều chị em vất bỏ con không phải là hiếm.
Tình trạng này thời gian qua rất phổ biến, nan giải nên Tổng liên đoàn và các cấp công đoàn đã tổ chức nhiều buổi truyền thông, tư vấn đến tận DN, nâng cao nhận thức, hiểu biết quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong DN.
Các cuộc truyền thông về dân số, sức khỏe sinh sản được tổ chức khá nhiều nhưng với hàng trăm nghìn DN thì nguồn nhân lực và kinh phí cho hoạt động này chưa đáp ứng được. Tuy nhiên, để khắc phục tình trạng này, Tổng LĐ đã ban hành các văn bản hướng dẫn công đoàn các cấp phải quan tâm đến việc này thường xuyên - Bà Trần Thu Phương – Trưởng phòng lao động nữ - Ban Nữ công (Tổng LĐLĐ Việt Nam)
Lao động nữ và chuyện 4 không
Các công nhân nữ rất thiếu kiến thức về chăm sóc sức khỏe sinh sản. Chương 10 Bộ Luật Lao động qui định: Hằng năm người sử dụng lao động phải khám sức khỏe cho người lao động trong đó có khám phụ khoa cho lao động nữ. Đa số DN mà chúng tôi đi khảo sát đã thực hiện nhưng chất lượng khám lại là cả một vấn đề. Những trung tâm mà họ thuê khám để đảm bảo được qui chuẩn thì không ai kiểm định cả. Khi phát hiện ra bệnh thì lao động nữ rất chủ quan, thường không chữa trị triệt để. Vì bình thường, để chữa được bệnh phụ khoa thì rất tốn kém. Với mức lương tối thiểu vùng khoảng 2,7 triệu đồng ở vùng 1 để bỏ ra 500.000 đồng đến 1 triệu đồng cho một lần khám là rất khó. Từ đấy các chị em cứ mách nhau dùng thuốc này thuốc kia lại không khỏi.
Về đời sống văn hóa tinh thần, việc tiếp cận các phương tiện thông tin đại chúng cũng không phải là dễ. Bây giờ mạng Internet rất phát triển nhưng với lao động nữ chuyện 4 không: không nhà, không chồng, không con, không sách báo là phổ biến. Nguyên do là thu nhập thấp, đi làm ngày 8 tiếng theo hợp đồng lao động nhưng tăng ca, tăng giờ rất nhiều; việc thuê phòng trọ chật chội, điều kiện cơ sở vật chất, ăn uống sinh hoạt kém… thì nói gì tới đời sống tinh thần.
Khi họ không tiếp cận được thông tin thì ngay cả chuyện yêu đương cũng tràn lan, cảm tính, không biết bạn trai ở đâu vì đều là nhập cư. Đến lúc sinh con, mang thai ngoài ý muốn thì lại tự đi giải quyết. Đã phá thai chui rồi thì không dám đăng ký với người sử dụng lao động là cho tôi được hưởng chế độ thai sản. Theo luật, khi lao động đi giải quyết kế hoạch hóa gia đình thì vẫn được nghỉ từ 7-10 ngày hoặc hơn nữa tùy theo tuổi thai và được hưởng nguyên lương những ngày đó và được bảo hiểm chi trả. Thế nhưng những chị em này hoàn toàn không dám công khai thì sao được hưởng chế độ đây? Về chế độ họ thiệt thòi, về sức khỏe cũng không đảm bảo vì khi họ đến phá thai ở những cơ sở kém chất lượng. Tình trạng nhiều chị em vất bỏ con không phải là hiếm.
Tình trạng này thời gian qua rất phổ biến, nan giải nên Tổng liên đoàn và các cấp công đoàn đã tổ chức nhiều buổi truyền thông, tư vấn đến tận DN, nâng cao nhận thức, hiểu biết quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong DN.
Các cuộc truyền thông về dân số, sức khỏe sinh sản được tổ chức khá nhiều nhưng với hàng trăm nghìn DN thì nguồn nhân lực và kinh phí cho hoạt động này chưa đáp ứng được. Tuy nhiên, để khắc phục tình trạng này, Tổng LĐ đã ban hành các văn bản hướng dẫn công đoàn các cấp phải quan tâm đến việc này thường xuyên.
Bà Trần Thu Phương – Trưởng phòng lao động nữ - Ban Nữ công (Tổng LĐLĐ Việt Nam) Lao động nữ và chuyện 4 không
Các công nhân nữ rất thiếu kiến thức về chăm sóc sức khỏe sinh sản. Chương 10 Bộ Luật Lao động qui định: Hằng năm người sử dụng lao động phải khám sức khỏe cho người lao động trong đó có khám phụ khoa cho lao động nữ. Đa số DN mà chúng tôi đi khảo sát đã thực hiện nhưng chất lượng khám lại là cả một vấn đề. Những trung tâm mà họ thuê khám để đảm bảo được qui chuẩn thì không ai kiểm định cả. Khi phát hiện ra bệnh thì lao động nữ rất chủ quan, thường không chữa trị triệt để. Vì bình thường, để chữa được bệnh phụ khoa thì rất tốn kém. Với mức lương tối thiểu vùng khoảng 2,7 triệu đồng ở vùng 1 để bỏ ra 500.000 đồng đến 1 triệu đồng cho một lần khám là rất khó. Từ đấy các chị em cứ mách nhau dùng thuốc này thuốc kia lại không khỏi.
Về đời sống văn hóa tinh thần, việc tiếp cận các phương tiện thông tin đại chúng cũng không phải là dễ. Bây giờ mạng Internet rất phát triển nhưng với lao động nữ chuyện 4 không: không nhà, không chồng, không con, không sách báo là phổ biến. Nguyên do là thu nhập thấp, đi làm ngày 8 tiếng theo hợp đồng lao động nhưng tăng ca, tăng giờ rất nhiều; việc thuê phòng trọ chật chội, điều kiện cơ sở vật chất, ăn uống sinh hoạt kém… thì nói gì tới đời sống tinh thần.
Khi họ không tiếp cận được thông tin thì ngay cả chuyện yêu đương cũng tràn lan, cảm tính, không biết bạn trai ở đâu vì đều là nhập cư. Đến lúc sinh con, mang thai ngoài ý muốn thì lại tự đi giải quyết. Đã phá thai chui rồi thì không dám đăng ký với người sử dụng lao động là cho tôi được hưởng chế độ thai sản. Theo luật, khi lao động đi giải quyết kế hoạch hóa gia đình thì vẫn được nghỉ từ 7-10 ngày hoặc hơn nữa tùy theo tuổi thai và được hưởng nguyên lương những ngày đó và được bảo hiểm chi trả. Thế nhưng những chị em này hoàn toàn không dám công khai thì sao được hưởng chế độ đây? Về chế độ họ thiệt thòi, về sức khỏe cũng không đảm bảo vì khi họ đến phá thai ở những cơ sở kém chất lượng. Tình trạng nhiều chị em vất bỏ con không phải là hiếm.
Tình trạng này thời gian qua rất phổ biến, nan giải nên Tổng liên đoàn và các cấp công đoàn đã tổ chức nhiều buổi truyền thông, tư vấn đến tận DN, nâng cao nhận thức, hiểu biết quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong DN.
Các cuộc truyền thông về dân số, sức khỏe sinh sản được tổ chức khá nhiều nhưng với hàng trăm nghìn DN thì nguồn nhân lực và kinh phí cho hoạt động này chưa đáp ứng được. Tuy nhiên, để khắc phục tình trạng này, Tổng LĐ đã ban hành các văn bản hướng dẫn công đoàn các cấp phải quan tâm đến việc này thường xuyên.
Bà Trần Thu Phương – Trưởng phòng lao động nữ - Ban Nữ công (Tổng LĐLĐ Việt Nam) Lao động nữ và chuyện 4 không
Các công nhân nữ rất thiếu kiến thức về chăm sóc sức khỏe sinh sản. Chương 10 Bộ Luật Lao động qui định: Hằng năm người sử dụng lao động phải khám sức khỏe cho người lao động trong đó có khám phụ khoa cho lao động nữ. Đa số DN mà chúng tôi đi khảo sát đã thực hiện nhưng chất lượng khám lại là cả một vấn đề. Những trung tâm mà họ thuê khám để đảm bảo được qui chuẩn thì không ai kiểm định cả. Khi phát hiện ra bệnh thì lao động nữ rất chủ quan, thường không chữa trị triệt để. Vì bình thường, để chữa được bệnh phụ khoa thì rất tốn kém. Với mức lương tối thiểu vùng khoảng 2,7 triệu đồng ở vùng 1 để bỏ ra 500.000 đồng đến 1 triệu đồng cho một lần khám là rất khó. Từ đấy các chị em cứ mách nhau dùng thuốc này thuốc kia lại không khỏi.
Về đời sống văn hóa tinh thần, việc tiếp cận các phương tiện thông tin đại chúng cũng không phải là dễ. Bây giờ mạng Internet rất phát triển nhưng với lao động nữ chuyện 4 không: không nhà, không chồng, không con, không sách báo là phổ biến. Nguyên do là thu nhập thấp, đi làm ngày 8 tiếng theo hợp đồng lao động nhưng tăng ca, tăng giờ rất nhiều; việc thuê phòng trọ chật chội, điều kiện cơ sở vật chất, ăn uống sinh hoạt kém… thì nói gì tới đời sống tinh thần.
Khi họ không tiếp cận được thông tin thì ngay cả chuyện yêu đương cũng tràn lan, cảm tính, không biết bạn trai ở đâu vì đều là nhập cư. Đến lúc sinh con, mang thai ngoài ý muốn thì lại tự đi giải quyết. Đã phá thai chui rồi thì không dám đăng ký với người sử dụng lao động là cho tôi được hưởng chế độ thai sản. Theo luật, khi lao động đi giải quyết kế hoạch hóa gia đình thì vẫn được nghỉ từ 7-10 ngày hoặc hơn nữa tùy theo tuổi thai và được hưởng nguyên lương những ngày đó và được bảo hiểm chi trả. Thế nhưng những chị em này hoàn toàn không dám công khai thì sao được hưởng chế độ đây? Về chế độ họ thiệt thòi, về sức khỏe cũng không đảm bảo vì khi họ đến phá thai ở những cơ sở kém chất lượng. Tình trạng nhiều chị em vất bỏ con không phải là hiếm.
Tình trạng này thời gian qua rất phổ biến, nan giải nên Tổng liên đoàn và các cấp công đoàn đã tổ chức nhiều buổi truyền thông, tư vấn đến tận DN, nâng cao nhận thức, hiểu biết quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong DN.
Các cuộc truyền thông về dân số, sức khỏe sinh sản được tổ chức khá nhiều nhưng với hàng trăm nghìn DN thì nguồn nhân lực và kinh phí cho hoạt động này chưa đáp ứng được. Tuy nhiên, để khắc phục tình trạng này, Tổng LĐ đã ban hành các văn bản hướng dẫn công đoàn các cấp phải quan tâm đến việc này thường xuyên.
Bà Trần Thu Phương – Trưởng phòng lao động nữ - Ban Nữ công (Tổng LĐLĐ Việt Nam) Lao động nữ và chuyện 4 không
Các công nhân nữ rất thiếu kiến thức về chăm sóc sức khỏe sinh sản. Chương 10 Bộ Luật Lao động qui định: Hằng năm người sử dụng lao động phải khám sức khỏe cho người lao động trong đó có khám phụ khoa cho lao động nữ. Đa số DN mà chúng tôi đi khảo sát đã thực hiện nhưng chất lượng khám lại là cả một vấn đề. Những trung tâm mà họ thuê khám để đảm bảo được qui chuẩn thì không ai kiểm định cả. Khi phát hiện ra bệnh thì lao động nữ rất chủ quan, thường không chữa trị triệt để. Vì bình thường, để chữa được bệnh phụ khoa thì rất tốn kém. Với mức lương tối thiểu vùng khoảng 2,7 triệu đồng ở vùng 1 để bỏ ra 500.000 đồng đến 1 triệu đồng cho một lần khám là rất khó. Từ đấy các chị em cứ mách nhau dùng thuốc này thuốc kia lại không khỏi.
Về đời sống văn hóa tinh thần, việc tiếp cận các phương tiện thông tin đại chúng cũng không phải là dễ. Bây giờ mạng Internet rất phát triển nhưng với lao động nữ chuyện 4 không: không nhà, không chồng, không con, không sách báo là phổ biến. Nguyên do là thu nhập thấp, đi làm ngày 8 tiếng theo hợp đồng lao động nhưng tăng ca, tăng giờ rất nhiều; việc thuê phòng trọ chật chội, điều kiện cơ sở vật chất, ăn uống sinh hoạt kém… thì nói gì tới đời sống tinh thần.
Khi họ không tiếp cận được thông tin thì ngay cả chuyện yêu đương cũng tràn lan, cảm tính, không biết bạn trai ở đâu vì đều là nhập cư. Đến lúc sinh con, mang thai ngoài ý muốn thì lại tự đi giải quyết. Đã phá thai chui rồi thì không dám đăng ký với người sử dụng lao động là cho tôi được hưởng chế độ thai sản. Theo luật, khi lao động đi giải quyết kế hoạch hóa gia đình thì vẫn được nghỉ từ 7-10 ngày hoặc hơn nữa tùy theo tuổi thai và được hưởng nguyên lương những ngày đó và được bảo hiểm chi trả. Thế nhưng những chị em này hoàn toàn không dám công khai thì sao được hưởng chế độ đây? Về chế độ họ thiệt thòi, về sức khỏe cũng không đảm bảo vì khi họ đến phá thai ở những cơ sở kém chất lượng. Tình trạng nhiều chị em vất bỏ con không phải là hiếm.
Tình trạng này thời gian qua rất phổ biến, nan giải nên Tổng liên đoàn và các cấp công đoàn đã tổ chức nhiều buổi truyền thông, tư vấn đến tận DN, nâng cao nhận thức, hiểu biết quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong DN.
Các cuộc truyền thông về dân số, sức khỏe sinh sản được tổ chức khá nhiều nhưng với hàng trăm nghìn DN thì nguồn nhân lực và kinh phí cho hoạt động này chưa đáp ứng được. Tuy nhiên, để khắc phục tình trạng này, Tổng LĐ đã ban hành các văn bản hướng dẫn công đoàn các cấp phải quan tâm đến việc này thường xuyên.
Bà Trần Thu Phương – Trưởng phòng lao động nữ - Ban Nữ công (Tổng LĐLĐ Việt Nam)