Từ đầu năm đến nay, Bệnh viện Đa khoa tỉnh Tuyên Quang đã tiếp nhận 45 ca đến khám do bỏng, trong đó có 28 ca phải nằm điều trị nội trú. Hiện tại, khoa Chấn thương chỉnh hình của Bệnh viện đang điều trị 8 trường hợp bị bỏng nước sôi, chủ yếu là trẻ nhỏ dưới 5 tuổi.

bong_nuoc_soi_mkml.jpg

Các y bác sỹ tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Tuyên Quang thay băng cho bệnh nhi bị bỏng nước sôi. (Ảnh: Bệnh viện ĐK Tuyên Quang)

Gần đây nhất là trường hợp bệnh nhi C.K.P, 3 tuổi, trú tại Lâm Bình, Tuyên Quang, vào viện ngày 25/3. Gia đình cho biết, khi lấy nước tắm đã đổ nước sôi vào chậu trước khi đổ nước lạnh, trẻ hiếu động đã ngã vào chậu nước gây bỏng nhiều chỗ trên cơ thể.

Bệnh nhi P. được chẩn đoán bỏng độ II-III ở các vị trí: lưng, cánh cẳng tay 2 bên, đùi 2 bên và 2 bên mông (diện tích bỏng khoảng 30% cơ thể).

Thạc sỹ, bác sỹ Quàng Văn Hải, Phó trưởng khoa Chấn thương chỉnh hình (CTCH), Bệnh viện Đa khoa tỉnh Tuyên Quang cho biết, các ca bỏng nặng thường phải điều trị lâu dài và tốn rất nhiều chi phí.

“Có nhiều tác nhân gây bỏng cho trẻ, thường gặp nhất là bỏng do nước sôi. Ngoài ra có thể là do dầu mỡ sôi, bỏng lửa hoặc điện, hóa chất. Tổn thương bỏng rất đa dạng ở nhiều vị trí như: chân, lưng, cánh cẳng tay, đặc biệt là bàn tay, ảnh hưởng rất nhiều đến sinh hoạt hàng ngày của bệnh nhi... để lại những di chứng nặng nề. Ngoài ra các vị trí bỏng ở vùng mặt hoặc bộ phận sinh dục cũng rất nguy hiểm vì ảnh hưởng đến thẩm mỹ và chức năng sinh sản sau này của trẻ”, bác sĩ Hải khuyến cáo.

Bác sỹ hướng dẫn cách sơ cứu bỏng:

Khi bị bỏng nước sôi, việc đầu tiên các gia đình cần làm là phải nhanh chóng bộc lộ vị trí bị bỏng, đưa vết bỏng vào dưới vòi nước hoặc vào chậu nước mát và sạch để giảm nhiệt độ bỏng, giảm đau, giảm phù nề, viêm nhiễm và giảm độ sâu của vết thương, hạn chế tổn thương lan rộng.

Nếu không, có thể dội nước mát sạch lên đó vài lần. Ngay cả khi da không còn tiếp xúc với tác nhân gây bỏng, nhiệt tích tụ ở vết bỏng vẫn tiếp tục gây tổn thương sâu hơn. Đây là biện pháp quan trọng số một giúp giảm thiểu mức độ tổn thương.

Tuyệt đối không dùng nước đá lạnh để làm mát vì có thể gây tổn thương da. Không áp dụng các biện pháp truyền miệng như phun rượu, bôi kem đánh răng, lòng trắng trứng lên vết bỏng để tránh làm gia tăng tổn thương. Nếu có thuốc xịt bỏng thì nhanh chóng xịt cho trẻ.

Sau đó bảo vệ vết thương để tránh tổn thương và nhiễm trùng thêm bằng cách: dùng băng gạc sạch hoặc vải mỏng băng nhẹ nhàng che phủ vết bỏng, tránh băng quá chặt làm tổn thương, khiến vết bỏng nặng thêm. Không được tiếp xúc trực tiếp với vết bỏng để tránh nhiễm khuẩn.

Trong trường hợp bé hoảng loạn, cha mẹ nên động viên, trấn an bé. Nếu trẻ đau nhiều thì dùng thuốc giảm đau.

Khi trẻ bị bỏng, nếu vùng bỏng lớn thì không nên cởi bỏ quần áo khiến trẻ bị lột da vùng bỏng. Thay vào đó, nên nhanh chóng dùng kéo cắt áo quần ra khỏi vết bỏng, tránh việc áo quần dính chặt vào vết bỏng khiến vết bỏng bị đau rát, dễ viêm nhiễm.

Nhẹ nhàng tháo bỏ các tư trang cá nhân, vòng lắc hoặc đồng hồ, giày dép… trước khi vết bỏng bị sưng nề./.