Ngày 19/4 vừa qua, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 493 - phê duyệt Chiến lược xuất nhập khẩu hàng hoá (XNK) đến năm 2030 với mục tiêu: XNK bền vững với cơ cấu cân đối, hài hoà, phát huy lợi thế cạnh tranh, lợi thế so sánh, phát triển thương hiệu hàng hoá Việt Nam, nâng cao vị thế quốc gia trong chuỗi giá trị toàn cầu, là động lực của tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng hóa bình quân 6 - 7%/năm trong thời kỳ 2021 - 2030…
Tại Chiến lược này, Chính phủ cũng đã xác định lộ trình và bước đi cụ thể về xuất khẩu, nhập khẩu - cho từng giai đoạn (2021-2025 và 2025-2030), đồng thời đề ra các giải pháp để triển khai thực hiện. Đâu là điểm nhấn quan trọng trong Chiến lược XNK hàng hoá thời kỳ 2021-2030? Nhiệm vụ của Bộ Công Thương trong triển khai Chiến lược này như thế nào? Phóng viên VOV đã có cuộc phỏng vấn bà Nguyễn Cẩm Trang - Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công Thương về nội dung này:
PV: Thưa bà, việc Chính phủ ban hành Chiến lược XNK hàng hoá giai đoạn 2021-2030 có ý nghĩa như thế nào, đặc biệt trong trong bối cảnh hiện nay?
Bà Nguyễn Cẩm Trang: Việt Nam đang bước vào thời kỳ phát triển mới với yêu cầu phát triển kinh tế nhanh và bền vững dựa trên đổi mới và sáng tạo, tăng trưởng xanh, phát triển kinh tế số, kinh tế tuần hoàn.
Kinh tế toàn cầu trong những năm tới được dự báo sẽ tiếp tục có những diễn biến phức tạp từ các cuộc xung đột địa chính trị, chiến tranh thương mại, dịch bệnh, chu kỳ khủng hoảng kinh tế, gây ra những hệ luỵ về đứt gãy chuỗi cung ứng, khủng hoảng năng lượng, áp lực lạm phát,…
Trong bối cảnh đó, xuất khẩu - một trong ba trụ cột của nền kinh tế cần được đảm bảo tăng trưởng bền vững trong dài hạn, đòi hỏi sự cập nhật và hoạch định những định hướng chính sách mới, giải pháp căn cơ mang tính chiến lược đối với hoạt động xuất, nhập khẩu.
Nhìn lại 10 năm thực thi Chiến lược XNK hàng hoá giai đoạn 2011-2020, hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam đã đạt được những thành tựu ấn tượng, đóng góp quan trọng vào công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế của đất nước.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa thời kỳ 2011 - 2020 vẫn còn một số tồn tại, hạn chế: Tăng trưởng xuất khẩu cao nhưng chưa bền vững khi cơ cấu thị trường xuất khẩu, nhập khẩu còn chậm chuyển dịch, cán cân thương mại song phương với một số thị trường lớn chưa hợp lý. Nền kinh tế chưa khai thác hết lợi thế cạnh tranh xuất khẩu dựa vào công nghệ, trình độ lao động, quản lý… để tạo ra các nhóm hàng xuất khẩu có khả năng cạnh tranh cao, có hàm lượng khoa học, công nghệ cao, có khả năng tham gia vào khâu tạo ra giá trị gia tăng cao trong chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị toàn cầu.
Do vậy, Chiến lược xuất nhập khẩu cho giai đoạn mới có sự quan tâm đúng mức đến chất lượng tăng trưởng và tính bền vững của phát triển xuất nhập khẩu.
Chiến lược xuất nhập khẩu thời kỳ 2011-2020 cũng tính đến những xu hướng mới trong thương mại quốc tế, khai thác hiệu quả sức mạnh nội lực cũng như những cơ hội của quá trình hội nhập sau khi nước ta tham gia nhiều Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, từ đó, xác định những ưu tiên chiến lược của hoạt động xuất nhập khẩu, lựa chọn những nguồn lực để đầu tư phát triển xuất nhập khẩu theo hướng bền vững.
PV: Việc Chính phủ đặt mục tiêu: Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng hóa bình quân 6 - 7%/năm trong thời kỳ 2021 - 2030 có thể nói là không cao so với thực tế tăng trưởng bình quân nhiều năm qua, kể cả trong những thời điểm khó khăn, tác động ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, tăng trưởng xuất khẩu luôn tăng trưởng ở mức 2 con số… Là cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực này, Bộ Công Thương cho biết lý do vì sao lại đặt mục tiêu tăng trưởng thấp hơn nhiều so với thực tế như vậy?
Bà Nguyễn Cẩm Trang: Mục tiêu “Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng hóa bình quân 6 - 7%/năm” là mục tiêu bình quân cho cả thời kỳ từ năm 2021- 2030. Mục tiêu cụ thể giai đoạn 2021 - 2025 là tăng trưởng xuất khẩu bình quân 8 - 9%/năm và giai đoạn 2026 - 2030 là tăng trưởng bình quân 5 - 6%/năm.
Sau kết quả tăng trưởng thời gian qua, hiện tại Việt Nam đã nằm trong nhóm các nước có quy mô xuất khẩu, nhập khẩu lớn của thế giới.
Trong thời gian tới, hoạt động xuất nhập khẩu còn đối diện với nhiều yếu tố bất định đến từ xung đột thương mại, căng thẳng địa chính trị, xu hướng gia tăng các hàng rào bảo hộ thương mại phi thuế quan tại nhiều khu vực thị trường lớn, diễn biến khó dự đoán của giá cả hàng hóa toàn cầu, nguy cơ lạm phát, rủi ro tài chính, tiền tệ,…
Nếu xét cả thời kỳ thì đây là mục tiêu 6 – 7%/năm không phải một mục tiêu thấp, mà ngược lại là một mục tiêu cao, rất thách thức. Quan điểm Chiến lược của giai đoạn đến năm 2030 cũng là phát triển xuất nhập khẩu bền vững, hướng đến chất lượng tăng trưởng.
PV: Theo bà, đâu là điểm nhấn quan trọng trong Chiến lược?
Bà Nguyễn Cẩm Trang: Chiến lược được ban hành có nhiều điểm nhấn mới so với Chiến lược xuất nhập khẩu thời kỳ 2011-2020 cả về quan điểm, mục tiêu và định hướng.
Về quan điểm, Chiến lược đề cập 3 quan điểm, tương ứng đề cập về các yếu tố liên quan đến phát triển xuất nhập khẩu: chất lượng tăng trưởng; động lực của tăng trưởng và phương thức, định hướng tăng trưởng. Một số điểm mới so với Chiến lược xuất nhập khẩu thời kỳ 2011-2020:
Quan điểm Chiến lược đề cập phát triển xuất khẩu bền vững thay cho phát triển xuất khẩu nhanh; đồng thời chỉ rõ các yếu tố để đạt được sự bền vững: hài hoà về cơ cấu, cán cân thương mại, về mục tiêu ngắn hạn và dài hạn, về công bằng xã hội, về bảo vệ môi trường. Chiến lược cũng đề cập vấn đề thương mại xanh, thương mại công bằng đang là mối quan tâm của các nước phát triển.
Phát triển xuất nhập khẩu gắn với các động lực mới: kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn và đổi mới sáng tạo.
Quan điểm Chiến lược xác định vai trò của các ngành, địa phương trong phát huy lợi thế so sánh của ngành và địa phương, khai thác hiệu quả cơ hội và hạn chế các thách thức trong thực thi cam kết hội nhập kinh tế quốc tế.
Về mục tiêu, Chiến lược đặt mục tiêu tổng quát là “Xuất nhập khẩu phát triển bền vững với cơ cấu cân đối, hài hoà, phát huy lợi thế cạnh tranh, lợi thế so sánh, phát triển thương hiệu hàng hoá Việt Nam, nâng cao vị thế quốc gia trong chuỗi giá trị toàn cầu, là động lực của tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”.
Có thể thấy, so với Chiến lược xuất nhập khẩu thời kỳ 2011-2020, Chiến lược không đặt chỉ tiêu về quy mô cụ thể mà xác định mục tiêu phát triển xuất nhập khẩu bền vững và là động lực của tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Đối với mục tiêu cụ thể, bên cạnh các mục tiêu về tăng trưởng xuất khẩu, nhập khẩu về quy mô và mục tiêu về cán cân thương mại, Chiến lược bổ sung mục tiêu về cơ cấu hàng xuất khẩu, cơ cấu thị trường xuất khẩu, nhập khẩu để cụ thể hoá quan điểm phát triển xuất nhập khẩu bền vững trên cơ sở hài hòa về cơ cấu hàng hóa, cơ cấu thị trường và cán cân thương mại với từng thị trường, khu vực thị trường.
Về định hướng, Chiến lược xác định 3 định hướng lớn về xuất khẩu hàng hoá, nhập khẩu hàng hoá và phát triển thị trường xuất khẩu, nhập khẩu. Một số điểm mới so với Chiến lược xuất nhập khẩu thời kỳ 2011-2020:
Bổ sung định hướng phát triển thị trường nhập khẩu hàng hoá, đặt cùng với phát triển thị trường xuất khẩu.
Về định hướng chung xuất khẩu hàng hoá, Chiến lược định hướng Phát triển xuất khẩu bền vững, phát huy lợi thế so sánh và chuyển đổi mô hình tăng trưởng hợp lý theo chiều sâu. Việc sử dụng hiệu quả các nguồn lực, bảo vệ môi trường sinh thái và giải quyết tốt các vấn đề xã hội được đề cập.
Về định hướng ngành hàng xuất khẩu, Chiến lược không đề cập định hướng nhóm hàng nhiên liệu, khoáng sản (hiện chỉ còn chiếm 1% kim ngạch xuất khẩu), thay vào đó bổ sung định hướng Không khuyến khích phát triển sản xuất, xuất khẩu các mặt hàng thâm dụng tài nguyên, gây ô nhiễm môi trường; chú trọng đầu tư phát triển xuất khẩu các sản phẩm kinh tế xanh, thân thiện với môi trường.
Định hướng trong Chiến lược không đề cập đến cân bằng thương mại đối với các TT lớn. Mà cụ thể mục tiêu là cán cân thương mại lành mạnh, hợp lý với các đối tác thương mại chủ chốt. Nhiệm vụ này cũng để triển khai quan điểm phát triển xuất nhập khẩu bền vững, vì nếu cán cân thương mại ở mức bất hợp lý, nhất là với các đối tác chủ chốt sẽ tiềm ẩn rủi ro ảnh hưởng đến tính phát triển liên tục của hoạt động thương mại.
PV: Tại QĐ 493/CP cũng đã đề ra các giải pháp thực hiện Chiến lược. Đâu là giải pháp ngành Công Thương tập trung để đạt được các mục tiêu Chiến lược đề ra?
Bà Nguyễn Cẩm Trang: Chiến lược đề ra vào 6 nhóm giải pháp chính mà ngành Công Thương cần tập trung, với nhiều điểm mới so với Chiến lược xuất nhập khẩu thời kỳ 2011-2020:
Phát triển sản xuất (bao gồm sản xuất công nghiệp và nông nghiệp), tạo nguồn cung bền vững cho xuất khẩu. Trong nội dung về phát triển sản xuất nông nghiệp, giải pháp về “Phát huy vai trò của địa phương trong lựa chọn loại nông sản thích hợp để hình thành vùng sản xuất tập trung theo quy hoạch; xây dựng chiến lược phát triển sản phẩm chủ lực, nông sản đặc trưng, phát triển thương hiệu đi cùng với các tiêu chuẩn chất lượng và an toàn thực phẩm đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế.” được bổ sung.
Phát triển thị trường xuất khẩu, nhập khẩu, bảo đảm tăng trưởng bền vững trong dài hạn. Trong đó, điểm mới là các giải pháp xúc tiến nhập khẩu và việc xem xét hạ dần hàng rào bảo hộ để tạo sức ép cho các doanh nghiệp sản xuất trong nước nâng cao hiệu quả kinh tế, giảm giá thành, cạnh tranh với hàng nhập khẩu
Hoàn thiện thể chế, tăng cường quản lý nhà nước trong tổ chức hoạt động xuất nhập khẩu nhằm tạo thuận lợi thương mại, chống gian lận thương mại và hướng tới thương mại công bằng. Đây là nhóm giải pháp mới.
Huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực cho phát triển xuất khẩu, nâng cấp cơ sở hạ tầng kho vận, giảm chi phí logistics. Nội dung về huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực cho phát triển xuất khẩu được bổ sung, theo đó để thực hiện định hướng phát triển xuất khẩu bền vững, sử dụng hiệu quả các nguồn lực.
Quản lý và kiểm soát nhập khẩu đáp ứng đủ nhu cầu cho sản xuất trong nước và hướng đến cán cân thương mại lành mạnh, hợp lý.
Nâng cao vai trò của Hiệp hội ngành hàng và các doanh nghiệp hạt nhân, thúc đẩy hình thành các chuỗi giá trị xuất khẩu quy mô lớn. Điểm mới của nhóm giải pháp là vai trò của các doanh nghiệp hạt nhân được đề cập và chú trọng.
Ngành Công Thương xác định cần triển khai tất cả các nhiệm vụ trên. Tuy vậy, nhiều nhóm nhiệm vụ thuộc chức năng, nhiệm vụ của các Bộ, ngành, địa phương. Do vậy, Quyết đinh phê duyệt Chiến lược của Thủ tướng Chính phủ giao xây dựng Chương trình hành động thực hiện Chiến lược, trong đó xác định cụ thể các nội dung nhiệm vụ của các bộ, ngành, cơ quan, thời hạn hoàn thành và nguồn lực thực hiện, sẽ được xây dựng và ban hành vào Quý III năm 2022.
PV: Nhìn lại Chiến lược XNK giai đoạn trước đây cũng như thực tế - dự báo… thì đâu là những khó khăn cần tháo gỡ để đạt được các mục tiêu mà Chiến lược XNK giai đoạn đến năm 2030 đã đề ra, thưa bà?
Bà Nguyễn Cẩm Trang: Bên cạnh những thành tựu đạt được, xuất nhập khẩu hàng hóa Việt Nam sau 10 năm thực hiện Chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa thời kỳ 2011-2020, định hướng đến năm 2030 còn tồn tại những khó khăn cần tháo gỡ:
Thứ nhất, tăng trưởng xuất khẩu hiện tại đạt tốc độ cao nhưng chưa thật sự bền vững trong trung và dài hạn, tiềm ẩn nhiều rủi ro có thể ảnh hưởng đến tăng trưởng xuất khẩu ổn định. Những rủi ro đó đến từ sự mất cân đối trong cán cân thương mại với các thị trường; sự mất cân đối về thị trường xuất khẩu; sự mất cân đối về cơ cấu doanh nghiệp xuất khẩu và sự mất cân đối về cơ cấu hàng hóa xuất khẩu.
Thứ hai, năng lực cạnh tranh của hàng xuất khẩu còn thấp và chậm được cải thiện, nhất là đối với các mặt hàng chế biến, chế tạo. Hàm lượng đổi mới sáng tạo trong sản phẩm xuất khẩu chưa cao.
Thứ ba, phát triển xuất khẩu chưa quan tâm đúng mức tới yếu tố bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng và bảo vệ môi trường của sản phẩm xuất khẩu hay quá trình sản xuất sản phẩm xuất khẩu. Nhiều sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam đứng trước rủi ro không được chấp nhận thâm nhập vào thị trường nước ngoài do chưa đáp ứng các quy định trong quá trình khai thác, đánh bắt, chế biến sản phẩm.
Thứ tư, xuất nhập khẩu tăng trưởng nhanh góp phần phát triển kinh tế, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động và nâng cao mức sống của người dân. Tuy vậy, cơ hội tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu và việc thụ hưởng thành quả từ tăng trưởng xuất khẩu còn chưa đồng đều giữa doanh nghiệp lớn và các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ; giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; giữa người nông dân và doanh nghiệp xuất khẩu. Chiến lược xuất nhập khẩu đến năm 2030 hướng tới khắc phục những hạn chế trên và phấn đấu phát triển xuất nhập khẩu theo hướng bền vững.
PV: Xin cảm ơn bà!./.