Là thành viên của ASEAN, Việt Nam đang nỗ lực cùng các nước trong khu vực thực hiện lộ trình xây dựng Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) vào năm 2015. Cùng với ASEAN, Việt Nam đang tham gia và thực hiện các Hiệp định Thương mại tự do (FTA) với Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Australia, New Zealand và Ấn Độ. Các Hiệp định xây dựng AEC và 5 Hiệp định FTA ASEAN+1 đang và sẽ đem lại những tác động nhiều chiều, nhất là trong dài hạn, đối với thương mại và đầu tư của Việt Nam.

Thúc đẩy xuất khẩu

Về thương mại, thúc đẩy xuất khẩu là tác động lớn nhất và quan trọng nhất mà các FTA này mang lại. Thông qua các hiệp định FTA, phần lớn hàng xuất khẩu của ta đã, đang và sẽ được hưởng thuế nhập khẩu ưu đãi 0%. Thực tế chỉ ra AEC và các hiệp định FTA đã góp phần tăng nhanh giá trị xuất khẩu giữa Việt Nam với ASEAN và với các đối tác của ASEAN.

asean1.jpg
Đa số nông sản Việt Nam vẫn giữ được thế cạnh tranh trên thị trường nội địa (Ảnh: DĐĐT)

Trong giai đoạn 2006-2012, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu trung bình của ta sang ASEAN, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Australia, New Zealand và Ấn Độ (các đối tác ASEAN+) là hơn 20%, cao hơn so với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu chung (khoảng 15%) và cao hơn tốc độ tăng nhập khẩu trong cùng thời kỳ. Do hiệu ứng của FTA, diện mặt hàng xuất khẩu sang một số đối tác, như ASEAN, Ấn Độ và Nhật Bản đã đa dạng hơn. Nhìn chung, các mặt hàng xuất khẩu chính của ta đều có khả năng hưởng lợi từ AEC và các FTA ASEAN+.

AEC và các FTA ASEAN+1 đã có tác động tích cực tới việc mở rộng thị phần của hàng Việt Nam trên các thị trường có liên quan, rõ nhất là tại các nước ASEAN, Hàn Quốc và Nhật Bản. Thị phần của hàng Việt Nam trên các thị trường này đã tăng đột biến và giữ được sức tăng ổn định ngay sau khi các FTA có hiệu lực. Các doanh nghiệp của ta ngày càng chủ động và tích cực hơn trong việc tận dụng các ưu đãi về thuế trong các FTA. Tỷ lệ hàng hóa được hưởng ưu đãi của ta (đáp ứng được yêu cầu về xuất xứ) cao so với các đối tác trong khu vực và luôn có xu hướng tăng lên qua các năm thực hiện. Riêng với Hàn Quốc, trên 90% hàng xuất khẩu của ta được hưởng ưu đãi về thuế thông qua FTA ASEAN - Hàn Quốc.

Các hiệp định AEC và ASEAN+ còn giúp ổn định nguồn nhập khẩu và hạ giá đầu vào nhập khẩu. Do nhập khẩu thường xuyên chiếm khoảng 80% GDP của ta nên việc ổn định nguồn nhập khẩu và hạ giá đầu vào nhập khẩu có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc duy trì tăng trưởng kinh tế nói chung và tăng trưởng xuất khẩu nói riêng.

Bên cạnh những tác động tích cực nói trên, khi chúng ta mở cửa theo FTA, sẽ có những sản phẩm, ngành hay lĩnh vực phải cạnh tranh với hàng nhập khẩu. Thậm chí ở chỗ này, chỗ khác sẽ có những ngành phải thu hẹp sản xuất do không cạnh tranh được. Đây là thực tế của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế  mà các quốc gia tham gia vào tiến trình này cần chấp nhận, miễn là lợi ích thu được phải luôn lớn hơn chi phí của việc thay đổi cơ cấu do cạnh tranh.

Bên cạnh đó, cần lưu ý là nguyên nhiên vật liệu, máy móc, thiết bị nhập khẩu từ các thị trường nói trên thường xuyên chiếm tỷ trọng lớn trên tổng kim ngạch nhập khẩu của ta nên nếu giảm được giá đầu vào (thông qua giảm thuế) thì về tổng thể, lâu dài, nền kinh tế vẫn sẽ được lợi.

FTA là câu chuyện "có đi có lại"

Về đầu tư,các FTA ASEAN và ASEAN+, đặc biệt là các Hiệp định xây dựng AEC, còn tác động tích cực tới thu hút FDI vào khu vực ASEAN nói chung và Việt Nam nói riêng. Các nhà đầu tư nước ngoài, khi xem xét đầu tư vào Việt Nam, đều coi AEC và các FTA mà ta đã ký là lợi thế lớn để mở rộng thị trường cho sản phẩm của mình. Một nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng việc thực hiện đầy đủ AEC và các hiệp định FTA ASEAN+1 vào năm 2018 sẽ giúp tăng thu nhập quốc dân thêm 4,5 điểm phần trăm so với năm 2007, tạo việc làm, giúp tăng lương của lao động giản đơn hơn 7,6%, riêng lương của lao động lành nghề có thể tăng tới 9,6%.

Trong bối cảnh hiện nay, hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực là xu thế tất yếu, là điều kiện bắt buộc đối với nước ta để thúc đẩy tăng trưởng, nhanh chóng thu hẹp khoảng cách phát triển. Bên cạnh tác động tích cực xét về mặt tổng thể đến thương mại và đầu tư của các FTA, việc chủ động tham gia các FTA này sẽ giúp Việt Nam cân đối và bảo vệ được lợi ích trong nước.

Ví dụ: Đối với hàng nông sản, thủy sản là những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của ta nên khi đàm phán các FTA, Việt Nam thường đề nghị các đối tác mở cửa nhanh cho những mặt hàng này. Tuy nhiên, FTA là câu chuyện "có đi có lại", muốn họ mở cho mình thì cũng phải cân nhắc mở cửa cho họ. Do đó, kết quả đàm phán phải cân đối giữa nhu cầu thúc đẩy xuất khẩu và bảo hộ sản xuất trong nước. Trên thực tế, trong nhiều trường hợp, chúng ta đã đưa một số mặt hàng nông sản cần bảo hộ vào danh mục các mặt hàng có lộ trình giảm thuế nhập khẩu dài hơn, thậm chí là loại trừ ra khỏi phạm vi cam kết.

Phải chủ động nắm cơ hội, vượt thách thức

Không phải tới năm 2015 (mốc hình thành AEC) chúng ta mới bắt đầu thực hiện các FTA với ASEAN và ASEAN+. Đơn cử, với hầu hết nông, thủy, hải sản chưa chế biến, ngay từ năm 2008 chúng ta đã áp dụng thuế nhập khẩu 0% cho các mặt hàng nhập khẩu từ ASEAN và Trung Quốc theo chương trình "Thu hoạch sớm".

Do đó, những lo ngại cho rằng tới năm 2015 lĩnh vực này sẽ rất khó khăn có phần chưa chính xác. Thực tế cho thấy ta luôn là nước xuất siêu sang Trung Quốc các mặt hàng thuộc chương trình "Thu hoạch sớm" và đa số nông sản Việt Nam vẫn giữ được thế cạnh tranh trên thị trường nội địa. Nhập khẩu từ Trung Quốc về cơ bản chỉ là bổ sung cho những thời điểm sản xuất trong nước bị thiếu hụt.

Ngoài ra, với thói quen tiêu dùng đã hình thành qua một thời gian dài, người tiêu dùng Việt Nam sẽ có xu hướng lựa chọn thực phẩm trong nước bởi chúng chắc chắn là tươi hơn, nếu như không nói là ngon hơn. Nếu ta làm tốt công tác vệ sinh và an toàn thực phẩm thì nông sản ngoại không dễ gì cạnh tranh với nông sản Việt Nam.

Hay như đối với mặt hàng đường, do sức cạnh tranh của sản xuất đường của ta chưa cao nên khi đàm phán các FTA, kể cả AEC, ta đã lưu ý bảo lưu một lộ trình giảm thuế dài hơn 2015 cho đường. Nếu tính từ thời điểm chúng ta ký FTA với ASEAN là năm 1995 thì tổng thời gian mà các doanh nghiệp có được để chuẩn bị đối diện với cạnh tranh từ Thái Lan là hơn 20 năm.

Mốc thời gian hướng tới việc thiết lập AEC cũng như hoàn thành các Hiệp định FTA ASEAN+1 đang đến gần. Việc thực hiện các thỏa thuận này đang mở ra những cơ hội lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam, đồng thời cũng đặt họ trước những sức ép về cạnh tranh, đòi hỏi cải thiện năng lực kinh doanh, makerting, xây dựng thương hiệu, v.v. Do đó, ngay từ bây giờ, các ngành hàng, doanh nghiệp cần phải chủ động hơn nữa để nắm bắt tốt những cơ hội và vượt qua những thử thách mà các FTA này mang lại./.