Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng cho rằng, việc hoàn thiện quy định pháp luật về phòng, chống rửa tiền là một trong những yếu tố then chốt thúc đẩy công tác phòng chống rửa tiền nói riêng và phòng, chống tham nhũng nói chung, đặc biệt trong việc điều tra, truy tố và xét xử tội phạm về tham nhũng, rửa tiền.
Theo báo cáo đánh giá rủi ro quốc gia của Việt Nam về rửa tiền, tài trợ khủng bố giai đoạn 2012 – 2017, nhóm tội phạm về tham nhũng là nhóm tội phạm nguồn của tội rửa tiền được đánh giá có nguy cơ rửa tiền từ mức “trung bình cao” đến mức “cao”. Do vậy, hiệu quả điều tra, truy tố, xét xử tội phạm rửa tiền sẽ góp phần đáng kể tăng cường hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng.
Việc xây dựng Luật Phòng chống rửa tiền (sửa đổi) nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập của Luật Phòng chống rửa tiền hiện hành, góp phần nâng cao hiệu quả công tác phòng chống rửa tiền; xây dựng hệ thống pháp luật về phòng chống rửa tiền phù hợp với các yêu cầu, chuẩn mực quốc tế về phòng chống rửa tiền mà Việt Nam có nghĩa vụ thực hiện trên cơ sở bảo đảm sự độc lập, tự chủ về kinh tế cũng như bảo đảm an ninh tiền tệ, an toàn tài chính quốc gia; Nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm rửa tiền nói riêng và công tác phòng, chống tội phạm nói chung.
Dự thảo Luật Phòng, chống rửa tiền (sửa đổi) được bố cục gồm 4 Chương, 65 Điều. Phạm vi điều chỉnh, về cơ bản dự thảo Luật kế thừa quy định tại Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2012, theo đó phạm vi điều chỉnh của Luật quy định về các biện pháp phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lý tổ chức, cá nhân có hành vi rửa tiền, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phòng, chống rửa tiền, hợp tác quốc tế trong phòng, chống rửa tiền.
Bên cạnh đó, dự thảo Luật Phòng, chống rửa tiền (sửa đổi) cũng quy định việc phòng, chống rửa tiền nhằm tài trợ khủng bố, tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt được thực hiện theo quy định của Luật này, quy định của pháp luật hình sự và pháp luật về phòng, chống khủng bố, phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt.
Về đối tượng báo cáo về phòng, chống rửa tiền, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Nguyễn Thị Hồng cho biết, dự thảo Luật kế thừa quy định về đối tượng báo cáo phòng, chống rửa tiền tại Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2012, bao gồm tổ chức tài chính và tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính. Bên cạnh đó, dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số nội dung về đối tượng báo cáo, trong đó có tên gọi của một số hoạt động của đối tượng báo cáo; bổ sung đối tượng báo cáo là các tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán.
Về áp dụng các biện pháp tạm thời, dự thảo quy định rõ các trường hợp thực hiện trì hoãn giao dịch và giao Chính phủ hướng dẫn các yếu tố như “cơ sở hợp lý để nghi ngờ” trên cơ sở thực tiễn công tác phòng, chống rửa tiền; luật hóa quy định về việc miễn trách nhiệm của đối tượng báo cáo tại Nghị định 116/2013/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung), bổ sung quy định về thời điểm thực hiện biện pháp trì hoãn giao dịch.
Theo Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, về việc minh bạch trong hoạt động của tổ chức phi lợi nhuận, dự thảo Luật bổ sung quy định về khái niệm tổ chức phi lợi nhuận là tổ chức hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, bao gồm tổ chức phi chính phủ nước ngoài, quỹ xã hội, quỹ từ thiện, các hội, tổ chức tôn giáo được thành lập, đăng ký, hoạt động theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Bên cạnh đó, dự thảo Luật quy định các tổ chức này phải thực hiện cập nhật, lưu trữ hồ sơ về việc tài trợ, tiếp nhận tài trợ của tổ chức phi lợi nhuận và cung cấp cho cơ quan có thẩm quyền khi được yêu cầu, qua đó đảm bảo yêu cầu về Phòng chống rửa tiền trong hoạt động của các tổ chức này.
Tránh tạo gánh nặng về thủ tục hành chính khi triển khai
Trình bày Báo cáo thẩm tra dự án Luật Phòng, chống rửa tiền (sửa đổi), Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh cho biết, Ủy ban Kinh tế nhất trí sự cần thiết sửa đổi Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2012 với các lý do như đã nêu trong Tờ trình của Chính phủ.
Tuy nhiên, Ủy ban Kinh tế đề nghị tiếp tục rà soát kỹ lưỡng các nội dung tại dự thảo Luật về các quy định liên quan đến ứng dụng công nghệ thông tin trong thu thập dữ liệu, xác minh thông tin nhận biết khách hàng với các luật có liên quan, như Luật An ninh mạng và dự thảo Luật Giao dịch điện tử (sửa đổi) dự kiến trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến tại kỳ họp thứ 4 và thông qua tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XV...
Đồng thời, đề nghị cần xem xét kỹ quy định về yếu tố để thực hiện báo cáo giao dịch đáng ngờ đối với “Giao dịch được thực hiện theo yêu cầu của bị can, bị cáo hoặc người bị kết án…”.
Việc bổ sung các dấu hiệu đáng ngờ phải được sự đồng ý của Ủy ban Thường vụ Quốc hội trước khi Chính phủ ban hành quy định để bảo đảm phù hợp với quy định tại Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, tương đồng với quy định tại khoản 3 Điều 4 của dự thảo Luật.
Ủy ban Kinh tế thống nhất việc quy định các dấu hiệu đáng ngờ bao gồm dấu hiệu đáng ngờ cơ bản và dấu hiệu đáng ngờ theo các lĩnh vực cụ thể. Tuy nhiên cần nghiên cứu bao quát cả các lĩnh vực khác thuộc đối tượng báo cáo nhưng chưa được quy định các dấu hiệu đáng ngờ cụ thể như luật sư, công chứng, kinh doanh kim loại quý, đá quý…. Đồng thời, đề nghị tiếp tục rà soát, điều chỉnh bảo đảm hợp lý và khả thi khi khối lượng báo cáo tương đối lớn trong khi một số quy định còn mang tính định tính, chưa rõ ràng…
Liên quan đến nội dung về đánh giá rủi ro rửa tiền của đối tượng báo cáo và phân loại khách hàng theo mức độ rủi ro về rửa tiền, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh cho rằng, đây là quy định mới và cần thiết trong bối cảnh các hành vi rửa tiền ngày càng tinh vi, thường xuyên thay đổi, đồng thời phù hợp với khuyến nghị của FATF.
Tuy nhiên, đề nghị tiếp tục rà soát, cân nhắc kỹ lưỡng quy định về báo cáo kết quả đánh giá rủi ro hoặc cập nhật kết quả đánh giá rủi ro về rửa tiền và khoản 1 Điều 16 về xây dựng quy trình quản lý rủi ro về rửa tiền tại đối tượng báo cáo bảo đảm tính khả thi và tránh tạo gánh nặng về thủ tục hành chính cho các đối tượng khi triển khai. Đồng thời cần báo cáo rõ về chế tài xử lý trong trường hợp không báo cáo hoặc không cập nhật kịp thời theo quy định tại dự thảo Luật, để tăng tính hiệu lực, hiệu quả và tính khả thi của các quy định này.
Bên cạnh đó, nhiều ý kiến trong Ủy ban Kinh tế nhất trí với quy định tại khoản 1 về cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị, tuy nhiên, cần cân nhắc nội hàm “chức vụ cấp cao” do khái niệm này còn định tính, có thể dẫn đến cách hiểu khác nhau. Có ý kiến đề nghị nghiên cứu thêm về kỹ thuật, bảo đảm việc xác định danh sách cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị là rõ ràng, minh bạch, khả thi trong thực tiễn triển khai; cân nhắc thuật ngữ “quản lý cấp cao” tại điểm b khoản 2; nhấn mạnh hơn trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong việc thông báo danh sách cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị./.