Chiều tối 17/11, Hội thảo khoa học quốc tế về Biển Đông lần thứ 12 với chủ đề “Duy trì Hoà bình và Hợp tác trong bối cảnh có nhiều biến động” do Học viện Ngoại giao (DAV), Quỹ Hỗ trợ Nghiên cứu Biển Đông (FESS) và Hội Luật gia Việt Nam (VLA) đồng tổ chức đã chính thức bế mạc.
Diễn ra trong hai ngày, Hội thảo bao gồm 8 phiên nội dung và 1 phiên đặc biệt với các chủ đề thảo luận được nhiều học giả và giới hoạch định chính sách quan tâm liên quan đến Biển Đông:
Tình hình Biển Đông trong bối cảnh thế giới hiện nay
Nhiều ý kiến tại hội thảo cho rằng tuy khó tìm được mối liên hệ trực tiếp giữa đại dịch Covid-19 và diễn biến căng thẳng trên Biển Đông, song Covid-19 làm cho quan hệ giữa các nước lớn xấu đi ở Biển Đông, nhất là quan hệ cạnh tranh Mỹ-Trung. Một số đại biểu cho rằng Trung Quốc đã lợi dụng tình hình Covid-19 để gia tăng nhịp độ hoạt động trên thực địa, mở rộng kiểm soát trên Biển Đông và cố ý va chạm với nhiều nước. Các mục tiêu cơ bản của Trung Quốc ở Biển Đông không thay đổi, nhưng gần đây Trung Quốc chủ trương thúc đẩy lập trường quan điểm của nước này trên khắp thế giới, gây nên phản ứng mạnh của chính phủ và người dân ở nhiều nước.
Trong khi đó, Mỹ vẫn duy trì các hoạt động quân sự và tự do hàng hải, song nổi bật hơn cả là cứng rắn hơn trên mặt trận ngoại giao-pháp lý, phản đối trực diện yêu sách của Trung Quốc ở Biển Đông. Nhiều ý kiến cho rằng lập trường này phản ánh xu hướng chính sách chung của chính quyền Mỹ theo hướng ngày càng cứng rắn hơn với Trung Quốc. Chính sách Biển Đông của Mỹ về cơ bản đã định hình rõ nét dưới thời Tổng thống Trump nên chính quyền sắp tới sẽ ít khả năng có điều chỉnh lớn về chiến lược.
Các diễn giả châu Âu khẳng định việc EU quan tâm và hiện diện nhiều hơn ở châu Á nói chung và Biển Đông nói riêng trong thời gian gần đây thông qua tăng cường hợp tác an ninh với ASEAN và các nước Đông Nam Á vì muốn bảo vệ hệ thống luật pháp quốc tế, tự do thương mại và trật tự dựa trên luật lệ trong khu vực. Tuy nhiên, ở khía cạnh khác, học giả Trung Quốc lại cho rằng sự “can thiệp” của các nước Châu Âu không phải là nước ven Biển Đông lại có thể khiến tình hình phức tạp hơn.
Các học giả Đông Nam Á cho rằng các nước ASEAN nhìn chung phản ứng kiềm chế để không làm căng thẳng ở Biển Đông vượt ngoài tầm kiểm soát, đồng thời tập trung ứng phó với đại dịch Covid-19, duy trì chuỗi cung ứng và phục hồi kinh tế trong nước. Tuy nhiên, nhiều nước Đông Nam Á như Indonesia vẫn kiên quyết phản đối yêu sách của Trung Quốc ở Biển Đông.
ASEAN tiếp tục thúc đẩy chủ nghĩa đa phương, vai trò trung tâm của ASEAN để giữ được vị thế trong bối cảnh cạnh tranh giữa các cường quốc ngày càng gay gắt, đồng thời nỗ lực thúc đẩy hợp tác biển trên cơ sở của luật pháp quốc tế, trong đó UNCLOS 1982 là cơ sở pháp lý cho các hoạt động trên các vùng biển và đại dương.
Có ý kiến cho rằng ASEAN cần tối ưu hoá nguyên tắc đồng thuận, thúc đẩy các cơ chế tiểu đa phương giữa các nước Đông Nam Á chủ chốt, chung chí hướng để hợp tác khu vực hiệu quả hơn. ASEAN cũng cần phải xây dựng, tăng cường các thiết chế của mình để có thể thúc đẩy hợp tác biển đa phương trong bối cảnh chủ nghĩa đa phương đang chịu nhiều thách thức trên thế giới.
Cuộc tranh luận bằng công hàm tại Liên Hợp Quốc
Nhiều học giả khẳng định, UNCLOS có giá trị phổ quát và toàn diện, có phạm vi điều chỉnh tất cả các vấn đề trên biển. Công hàm của các nước gửi lên Liên Hợp Quốc thời gian qua đều trực tiếp và gián tiếp đề cập tới Phán quyết của Toà Trọng tài trong vụ kiện Biển Đông năm 2016, vốn phản đối các yêu sách vùng biển phi lý của Trung Quốc. Uỷ ban Ranh giới thềm lục địa của Liên Hợp Quốc đã trở thành nơi lưu giữ chính thức tất cả các công hàm, công thư phản đối các yêu sách vô lý của Trung Quốc ở Biển Đông.
Bên cạnh đó, các học giả cũng đánh giá rằng các công hàm, công thư trao đổi ở Liên Hợp Quốc đã có những đóng góp có giá trị trong việc làm rõ và củng cố lập trường pháp lý của các bên liên quan; đây là nguồn tài liệu quan trọng thể hiện quan điểm của các bên yêu sách về vấn đề Biển Đông. Cuộc tranh luận bằng công hàm là cách đấu tranh chính thức, hòa bình và mang lại sự minh bạch vì các nước yêu sách dần làm rõ các yêu sách lãnh thổ và yêu sách biển ở Biển Đông, và công bố công khai với cộng đồng và các nước trên thế giới. Diễn biến pháp lý này cũng có thể là cơ sở tham khảo cho các bên trong đàm phán COC. Bên cạnh đó, có học giả còn đề xuất như các một số quốc gia cùng ASEAN thể hiện điểm đồng trong nhiều vấn đề pháp lý có thể tiến tới một tuyên bố lập trường chung về Biển Đông.
Vai trò của truyền thông trong định hình quan điểm của công chúng ở Biển Đông
Các đại biểu cho rằng sự cạnh tranh định hình dư luận này đã diễn ra ở phạm vi rộng, ở nhiều hình thức khác nhau. Việc cơ quan truyền thông các nước lớn đưa tin từ góc độ chủ nghĩa dân tộc có thể làm sai lệch thông tin, có hại cho việc thúc đẩy hợp tác quản lý và giải quyết hoà bình các tranh chấp. Việc cố tình che giấu thông tin và cung cấp thông tin sai lệch có thể phản tác dụng với chính chính phủ các nước. Các học giả cũng khuyến nghị công chúng cần tham khảo thông tin từ các nguồn chính thống và đối chiếu các nguồn thông tin với nhau để có được góc nhìn khoa học, chân thực nhất có thể về một vấn đề chính trị nóng bỏng như Biển Đông.
Phòng tránh nguy cơ đụng độ trên biển
Trong thời gian vừa qua đã xảy ra nhiều vụ đụng độ đáng tiếc giữa các lực lượng chấp pháp của các nước láng giềng, nhất là tại vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của các nước ven biển. Một số hoạt động nghiên cứu khoa học biển, khai thác tài nguyên của các nước trên vùng biển nước mình cũng thường bị quấy nhiễu. Nguy cơ xảy ra đụng độ trên biển thời gian tới ngày càng lớn do cạnh tranh giữa các nước lớn gia tăng. Do vậy, các học giả đề xuất một số khuyến nghị cho các nước liên quan nhằm phòng tránh đụng độ, giảm thiểu rủi ro như nghiêm chỉnh tuân thủ Công ước Luật biển UNCLOS 1982, các nước gia nhập các điều ước, thoả thuận quốc tế nhằm giảm thiểu rủi ro trên biển như COLREG, SUA and SOLAS.
Từ năm 2016, Trung Quốc và ASEAN đã ra tuyên bố chung về Quy tắc phòng tránh đụng độ trên biển (CUES). Tuy nhiên, đến nay CUES vẫn là bộ quy tắc tự nguyện và chỉ áp dụng cho các lực lượng hải quân. Do vậy, học giả Úc đề xuất mở rộng phạm vi áp dụng CUES cho cả các lực lượng cảnh sát biển, chấp pháp dân sự trên biển.
Một vấn đề nóng bỏng được đề cập đến trong chủ đề phòng tránh đụng độ trên biển là Dự luật Cảnh sát biển của Trung Quốc, trong đó có thể có quy định cho phép lực lượng chấp pháp biển Trung Quốc sử dụng vũ lực trong vùng biển nước này yêu sách. Dự luật này đã gây ra lo ngại nghiêm trọng không chỉ đối với các nước khu vực mà còn đối với các nước cùng sử dụng Biển Đông, Biển Hoa Đông, do việc Trung Quốc thực hiện dự luật sẽ đe doạ tính mạng và tài sản của ngư dân các nước, gây cản trở tự do hàng hải qua khu vực Biển Đông.
Học giả Trung Quốc giải thích rằng đây là vấn đề nội bộ của Trung Quốc và Trung Quốc luôn theo đuổi chính sách hữu nghị truyền thống với các nước láng giềng trong vấn đề Biển Đông. Tuy nhiên, nhiều học giả Ấn Độ, Nhật Bản và Đông Nam Á tiếp tục bày tỏ sự lo ngại đối với dự luật, do Trung Quốc không làm rõ khu vực biển áp dụng dự luật cũng như những tiêu chí cho phép cảnh sát biển Trung Quốc sử dụng vũ lực. Tuy một số nước ven biển cũng cho phép lực lượng cảnh sát biển sử dụng vũ khí trong một số tình huống nhất định nhưng dự luật của Trung Quốc gây lo ngại chính vì cách hành xử tuỳ tiện của nước này đối với ngư dân và tàu thuyền các nước thời gian qua.
Bảo vệ môi trường, phát triển kinh tế bền vững ở Biển Đông
Các đại biểu tham dự cho rằng đây là những lĩnh vực cần được các nước quan tâm chú ý do đây là các lĩnh vực hợp tác đầy tiềm năng, có hiệu quả thực tiễn, cho thấy thiện chí hợp tác của các nước nhằm làm giảm căng thẳng, đóng góp vào quá trình xây dựng lòng tin tại khu vực. Đồng thời, hợp tác trong các lĩnh vực này cũng góp phần đáp ứng lợi ích chung của người dân các nước khu vực về bảo vệ môi trường, phát triển bền vững… Tuy nhiên, khi đi vào thúc đẩy hợp tác trong các lĩnh vực nói trên, các đại biểu cho biết họ gặp phải nhiều khó khăn khi đề xuất các dự án trên thực địa, đồng thời xuất hiện nhiều yếu tố nhạy cảm trong tiến trình hợp tác như vị trí địa lý, cơ chế tổ chức, tài chính và nhân sự....
Ngoài ra, gần đây một số nước đối tác của ASEAN cũng đề xuất các ý tưởng, sáng kiến hợp tác “kinh tế biển xanh” với ASEAN, do đó khó tránh khỏi chồng chéo và phức tạp giữa các sáng kiến này. Các đại biểu đã đề xuất tìm kiếm các biện pháp để đồng bộ hoá các sáng kiến này, kể cả việc xây dựng các cơ chế hợp tác biển đa phương của ASEAN và giữa ASEAN với các nước đối tác để thúc đẩy hợp tác biển.
Năm nay, Hội thảo Biển Đông lần thứ 12 lần đầu tiên được tổ chức theo hình thức kết hợp trực tiếp và trực tuyến và đã mời được số lượng kỷ lục các diễn giả, phản biện và người tham dự Hội thảo.
Các phiên thảo luận tại Hội thảo lần này bám sát thực tiễn hơn, thảo luận các chủ đề cấp bách với sự tham gia sâu rộng hơn của giới hoạch định và thực thi chính sách, tiếp tục đóng vai trò cầu nối tốt hơn giữa kênh chính thức và bán chính thức nhằm góp phần tạo ra những chuyển biến thực chất, đóng góp cho hòa bình, hợp tác ở Biển Đông.
Lần đầu tiên hội thảo mời được nhiều nhà báo quốc tế tham dự với vai trò diễn giả thảo luận về vai trò của truyền thông trong định hình nhận thức của công chúng đối với tình hình Biển Đông. Hội thảo cũng lần đầu tiên dành một phiên đặc biệt cho các Lãnh đạo trẻ nhằm tạo dựng thế hệ kế tiếp quan tâm thúc đẩy hoà bình, ổn định và hợp tác ở Biển Đông. Các học giả tham dự Hội thảo cũng bày tỏ nguyện vọng được gặp mặt trực tiếp tại Việt Nam trong chuỗi Hội thảo Biển Đông sắp tới, khi đại dịch đi qua./.