Khi sân khấu Việt Nam “sống” trong nhiều nỗi lo mang tính “cơm áo gạo tiền”, điện ảnh, âm nhạc thì phim thị trường, nhạc thị trường thống lĩnh, nghệ thuật múa thì chỉ có múa minh họa là phát triển. Rồi Mỹ thuật Việt Nam bao năm nay “dậm chân tại chỗ”, nhiếp ảnh vẫn các giải thưởng trong nước mà chất lượng mỗi năm một kém đi, hay Văn học cũng đang đợi các “tác phẩm đỉnh cao”…

1_225041_buzq.jpg
 

Có quá bi quan cho một nền nghệ thuật Việt Nam đương đại khi nhìn vào tổng thể đang diễn ra?

Không có lý luận phê bình làm nền tảng sáng tạo nghệ thuật

Có lẽ chưa thời kỳ nào mà nghệ thuật Việt Nam lại rơi vào những lúng túng trong việc “định” giá trị và nhận “chân” thẩm mỹ các tác phẩm nghệ thuật như hiện tại. Không chỉ có những giá trị ảo trong nghệ thuật, những “bốc thơm” để tự sướng trong giới văn nghệ sĩ, mà còn cả những lệch chuẩn thẩm mỹ trong thưởng thức nghệ thuật của công chúng.

Ảnh minh hoạ.

Chẳng lạ gì khi sân khấu chính kịch rất khó khăn để “đứng” vài đêm sáng đèn, thì phim hài nhảm doanh thu lại cực “khủng” hay những ca khúc “thảm họa” nhạc Việt thì được “nhân bản” đến chóng mặt, những ca khúc thị trường với những giọng hát thị trường lại luôn đứng trong Top hit.

Một năm gần như chỉ có một- hai chương trình biểu diễn nghệ thuật Múa (tính cả chương trình gameshow trên truyền hình), còn thì múa hiện tại là gắn với các màn múa minh họa. Nhiếp ảnh thì "nở rộ" với những cuộc thi ảnh ở mọi cấp độ, để rồi như một thú chơi cá nhân chứ ít có ảnh hưởng hay tác động xã hội, hay tham gia vào hoạt động văn hóa nghệ thuật cộng đồng, và các tác phẩm nhiếp ảnh “được” cho là xuất sắc thì vẫn nhàn nhạt, đèm đẹp, bóng bảy màu sắc mà vô hồn với hiện thực cuộc sống.

Trong Mỹ thuật, lác đác vài cá nhân có những thể nghiệm riêng nhưng chưa tạo thành xu hướng nghệ thuật mới, còn lại vẫn “muôn năm cũ”, làm cho sức hấp dẫn ngày càng giảm. Các cuộc trưng bày mỹ thuật toàn quốc hay khu vực, nhân tố mới đều rất hiếm, và chưa  rõ mỹ thuật đương đại Việt hiện tại như thế nào.

Hoạt động náo nhiệt nhất vẫn là văn chương, với số đầu sách hàng năm xuất bản có thể lên đến hàng ngàn cuốn, cùng với khá nhiều cuộc thi từ cấp trung ương đến địa phương, các đoàn thể, cơ quan, cả mạng xã hội…, nhưng cũng lại hỏi rằng các cuốn sách đó “sống” được bao lâu?

Và điều rõ ràng nhất là nghệ thuật Việt Nam hiện tại chưa có một vị trí nào trong nghệ thuật thế giới nói chung và ngay cả với khu vực châu Á cũng chưa có tín hiệu nào khả quan. Những gì gọi là “mang chuông đi dánh xứ người”, hay một số xuất bản phẩm ở nước ngoài chỉ có tính chất nhỏ lẻ, giao lưu, giới thiệu, trao đổi văn hóa… Còn những gì hiện đang có mặt tại khu vực Đông Nam Á thì cũng chỉ mang tính “nội bộ”, ít có tầm ảnh hưởng.

Nguyên nhân đầu tiên của việc nghệ thuật Việt Nam đương đại không có một vị trí trong nền nghệ thuật thế giới nói chung chính là vì nghệ thuật Việt Nam chưa có một “định hình” trong sáng tạo nghệ thuật để vừa mang tính “toàn cầu” hội nhập các xu thế nghệ thuật thế giới, vừa có “tính cách”, “bản sắc” riêng của Việt Nam.

Mà cái lỗi này chính do nền nghệ thuật Việt Nam đương đại chưa có một nền lý luận phê bình (LLPB) đúng tầm như hiện tại.

LLPB nghệ thuật hiện tại của Việt Nam hiện tại chưa theo kịp những xu thế nghệ thuật thế giới, chưa đủ “tầm” để tiếp cận một cách nghiêm túc và đầy đủ những xu thế nghệ thuật đương đại toàn cầu. Những gì LLPB đang làm chỉ là sự minh họa hơn là phân tích, và chính vì thế mà đôi khi LLPB bị rơi vào việc lựa chọn rời rạc, cá nhân, không đánh giá đúng một thang giá trị chuẩn nào.

Sự thiếu hụt đội ngũ phê bình văn học nghệ thuật trong những năm gần đây đang là điều rất đáng lo ngại. Không ít những người làm công tác phê bình đã bỏ nghề và lui vào nghiên cứu, viết lịch sử… Nguyên nhân là do không an tâm với nghề, né tránh những vấn đề gay cấn, “dĩ hòa vi quý”, ngại va chạm; cách đào tạo chưa thật sự tốt. Vì thế, đây là vấn đề mà chúng tôi đang rất trăn trở và cũng đang có kế hoạch tổ chức những buổi nói chuyện, tọa đàm để bàn về vấn đề này”- Ông Phan Đình Tân, Phó Chủ tịch chuyên trách Hội đồng LLPB VHNT Trung ương.

Cũng vì thiếu một nền LLPB hiện tại, mà nhiều lệch chuẩn trong thẩm mỹ thưởng thức nghệ thuật của công chúng cũng bị ảnh hưởng. Những thứ “ngụy” nghệ thuật đôi khi được tôn vinh thái quá, thậm chí còn lũng đoạn môi trường nghệ thuật, vẩn đục đời sống văn hóa nghệ thuật cộng đồng, còn những gì thuộc nghệ thuật chân chính thì bị lãng quên hay bị xem là lạc hậu.

Nghệ thuật Việt Nam- giao lưu là chính

Một sự thật không biết nên vui hay buồn. Nghệ thuật Việt Nam khi mang ra nước ngoài có hai “luồng”. Luồng chính thống thuộc sự quản lý của Nhà nước, nằm trong các chương trình ngoại giao văn hóa, hữu nghị, giao lưu, trao đổi văn hóa… Và những chương trình này thì bao năm nay “thực đơn” vẫn không thay đổi, như mẫu số chung đơn điệu, bó hẹp bởi khuôn khổ “truyền thống”.

Thế giới khi nói đến nghệ thuật Việt Nam, thì hay nhắc tới vài di sản được UNESCO phong danh như Quan họ, Ca trù, Đờn ca tài tử, Nhã nhạc cung đình Huế, Cồng chiêng Tây Nguyên…, nhạc cụ dân tộc, múa dân gian, áo dài, nón lá… Còn toàn bộ những gì thuộc về nghệ thuật đương đại đều là “bí ẩn” đối với cả giới nghệ thuật nước ngoài, bởi chưa khi nào những loại hình nghệ thuật đương đại ở Việt Nam được chính thức có mặt trong các chương trình này.

Nhiều nghệ sĩ tiếc nuối khi vuột cơ hội giới thiệu nghệ thuật Việt Nam đương đại với quốc tế.

Chính vì thế mà có rất nhiều nghệ sĩ cảm thấy tiếc nuối khi vuột bao nhiêu cơ hội để giới thiệu một nền nghệ thuật Việt Nam đương đại với quốc tế thông qua đường “chính ngạch” này.

Những lần mang tác phẩm nghệ thuật đi tham dự các Liên hoan quốc tế, thì gần như câu cửa miệng không chỉ của tác giả, hay của tổ chức mang tác phẩm dự thi đều như một slogan quen thuộc: “Đi để giao lưu là chính. Học hỏi kinh nghiệm của bạn…”, và vì thế quyết tâm giới thiệu nghệ thuật Việt Nam với bè bạn cũng giảm đi một phần, chưa kể khâu chuẩn bị để cho tác phẩm nghệ thuật Việt Nam được giới thiệu hoàn hảo đều sơ sài, thiếu chu đáo…

Ngay trong văn học, một ngành nghệ thuật có nhiều hoạt động “ngoại giao văn hóa” khá hữu hiệu, thì cũng chỉ là mang tính hữu nghị trong phạm vi một tổ chức, một khu vực. Và văn học Việt Nam vẫn chưa thể có vị trí như văn học một số quốc gia khác trong khu vực chấu Á khi số đầu sách của họ được dịch ra ngoại ngữ thành các “best seller”, rồi đoạt các giải văn học danh tiếng toàn cầu…

Văn học Việt Nam được dịch ra tiếng nước ngoài tính từ trước tới nay xấp xỉ 600 đầu sách, một con số ít như hạt cát nhỏ trong mênh mông đại dương. Công tác xuất khẩu các ấn bản phẩm Việt Nam ra thị trường nước ngoài gần nhất là năm 2018 chỉ đạt 415 nghìn bản sách/ so với 35,3 triệu bản sách nhập của nước ngoài (số liệu của Cục XBBC).

Luồng thứ hai không chính thống, là của những văn nghệ sĩ tự tìm hiểu, tự kết nối, và tự đưa tác phẩm của mình tham gia các cuộc thi nghệ thuật của thế giới. Và trong số đó, có nhiều nghệ sĩ đã gặt hái được các kết quả mà không chỉ mang vinh dự về cho cá nhân họ, chứng tỏ tài năng của người Việt Nam không thua gì các nước khác, mà còn là mang vinh quang về nghệ thuật Việt Nam, để thế giới biết rằng Việt Nam cũng đang có một “dòng chảy” nghệ thuật đương đại chẳng thua kém các quốc gia khác.

Phấn đấu cho một nền văn hóa nghệ thuật Việt Nam “hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc” không chỉ là khẩu hiệu suông. Phó GS- TS Nguyễn Thế Kỷ, Ủy viên Trung ương Đảng, Tổng Giám  đốc Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV), Chủ tịch Hội đồng LLPB VHNT Trung ương cũng nhận định: "Phải làm sao vừa làm tốt công tác nghiên cứu, lý luận, vừa bám sát hơi thở đời sống văn học, nghệ thuật nước nhà".

Đã đến lúc phải nhìn nhận vấn đề này một cách nghiêm túc, để cho nền nghệ thuật Việt Nam thật sự mạnh, thật sự phát triển, không những giữ được những tinh hoa truyền thống dân tộc mà còn mang những tinh hoa đương đại có một vị trí trong nền nghệ thuật thế giới./.