Chiều 30/10, con rể nhà văn Kim Dung, ông Ng Wai Cheong, chính thức xác nhận với báo chí Trung Quốc thông tin bố vợ ông đã qua đời ở tuổi 94, tại bệnh viện Hồng Kông sau thời gian dài chiến đấu với bệnh tật. Nhắc đến văn học Trung Quốc, không thể không nhắc đến những tiểu thuyết kiếm hiệp của Kim Dung. Tác phẩm của ông trở thành một phần trong ký ức của nhiều thế hệ.
Được mệnh danh là "Võ lâm minh chủ" về sách kiếm hiệp, là một trong tứ đại tiểu thuyết gia có sức ảnh hưởng và được yêu thích nhất Trung Quốc, nhưng cuộc đời ông lại gặp nhiều bi kịch đẫm nước mắt.
Cố nhà văn Kim Dung. |
Xuất thân từ dòng dõi cao quý
Nhà văn Kim Dung tên thật là Tra Lương Dung, sinh ngày 6/2/1924, là con thứ 2 trong một một gia tộc hiển hách tại Hải Ninh, Chiết Giang, Trung Quốc. Thời đó, dòng họ của ông có một nhà để sách được biết tới với tên "Tra thị tàng thư" nổi tiếng khắp vùng Chiết Tây với vô số sách cổ, sách quý. Ông nội của ông là Tra Văn Thanh từng làm quan vào cuối thời nhà Thanh. Trong cuốn Liên thành quyết, Kim Dung từng viết về ông nội của mình làm tri huyện Đan Dương (Giang Tô).
Thời niên thiếu, Tra Lương Dung rất mê đọc sách, cậu thường đọc ngấu nghiến mỗi khi anh trai mua về từ Thượng Hải hoặc mượn từ những chú bác, anh em họ. Tuy nhiên, có rất ít tài liệu nói về cha mẹ của ông. Cố nhà văn cũng rất hạn chế nhắc đến cha mẹ mình. Chỉ trong một cuốn tự truyện hiếm hoi, Kim Dung viết: "Cha, mẹ anh ta không làm những việc xấu và cũng không áp bức người khác. Tuy nhiên, họ hành động vô thức theo hệ thống và phương pháp cố hữu từ bao đời. Họ sống thoải mái và không quan tâm đến nạn đói và đau khổ của người dân". (Theo Straits times)
Có một điều đặc biệt nữa là, trong tác phẩm của ông, các đại hiệp hầu hết đều là cô nhi. Ông cũng thường khắc họa tình cha mẹ trong truyện một cách rất mờ nhạt. Họ hầu hết chỉ được nếm trải tình cảm cha mẹ từ thuở nhỏ.
Ông từng tốt nghiệp cử nhân Luật quốc tế tại Đại học Tô Châu, sau đó về công tác tại tờ Nhật báo Đông Nam khi còn là sinh viên. Một thời gian làm tại tờ Đại Công Báo, đến năm 1948, ông chuyển đến Hồng Kông làm việc.
Sau nhiều biến cố gia đình, ông bắt đầu sáng tác tiểu thuyết võ hiệp với việc xây dựng hình tượng những người anh hùng hào hiệp, trượng nghĩa... trong các tác phẩm của mình.
Kim Dung viết rất nhiều thể loại khác nhau, nhưng nổi tiếng nhất là 15 bộ tiểu thuyết kiếm hiệp: Phi hồ ngoại truyện, Tuyết sơn phi hồ, Liên thành quyết, Thiên long bát bộ, Xạ điêu anh hùng truyện, Bạch mã khiếu Tây phong, Lộc đỉnh ký, Tiếu ngạo giang hồ, Thư kiếm ân cừu lục, Thần điêu hiệp lữ, Hiệp khách hành, Ỷ thiên Đồ long ký, Bích huyết kiếm, Việt nữ kiếm và Uyên ương đao... Tác phẩm đầu tay của ông ra đời năm 1955 là "Thư kiếm ân cừu lục", kết thúc bằng bộ "Lộc Đỉnh Ký" năm 1970 đã đưa ông trở thành tiểu thuyết gia kiếm hiệp hàng đầu của thế kỷ XX. Các tác phẩm của ông hầu hết đều được chuyển thể thành phim và cũng trở thành nhiều tác phẩm ăn khách.
Hôn nhân lỡ dở và nỗi đau mất con trai đầu lòng
Trong sự nghiệp cầm bút, nhà văn Kim Dung đã nhận được rất nhiều giải thưởng, danh hiệu danh giá như: Huân chương Tử kinh (2000), Thành tựu trọn đời cho nghệ sĩ người Hoa có tầm ảnh hưởng thế giới (2008), vinh danh trong danh sách các bậc tông sư văn học vĩ đại nhất trong lịch sử Trung Quốc….
Sự nghiệp lừng lẫy như vậy, nhưng cuộc đời của ông lại gặp nhiều bi kịch khi đối mặt với 3 cuộc hôn nhân lỡ dỡ và trải qua nỗi đau mất mát người con trai đầu lòng.
Người vợ đầu tiên của ông là Đỗ Dã Phần, người phu nữ nổi tiếng xinh đẹp và là con gái dòng dõi "trâm anh thế phiệt". Hai người quen biết nhau vào năm 1947, khi Kim Dung làm việc tại tòa soạn báo ở Thượng Hải. Trong một lần ông đến chơi nhà một độc giả thân thiết, Đỗ Dã Phần là chị gái của anh chàng độc giả này. Ông nhanh chóng bị thu hút bởi ngoại hình xinh đẹp và sự thông minh của cô gái này.
Sau môt thời gian chinh phục người đẹp, năm 1948, cặp đôi tổ chức hôn lễ tại Thượng Hải. Vừa kết hôn xong , Kim Dung được cử đi công tác, ông đưa vợ đi cùng đến Hồng Kông. Tuy nhiên, vì cuộc sống khó khăn, Đỗ Dã Phần không chịu nổi, bỏ về nhà bố mẹ đẻ. Hai người ly hôn 3 năm sau đó. Sau này, nhắc lại cuộc hôn nhân ngắn ngủi này, Kim Dung cho biết, thực chất người vợ đầu tiên đã phản bội ông.
Người vợ thứ 2 của ông là Chu Mai (kém Kim Dung 11 tuổi) – mẹ ruột cả 4 người con của Kim Dung và cùng ông vượt qua giai đoạn khó khăn nhất cuộc đời. Bà cũng là người hỗ trợ ông trong thời gian sáng lập tờ Minh Báo. Đến khi sự nghiệp thăng tiến, Kim Dung hoàn thành 14 tác phẩm đồ sộ, Minh Báo trở thành tờ báo bán chạy nhất Hồng Kông thì cũng là lúc gia đình ông có dấu hiệu rạn nứt. Sau những cuộc tranh cãi, Chu Mai phát hiện ông đã thay lòng đổi dạ khi có tình cảm đặc biệt với minh tinh Hạ Mộng.
Chuyện tình giữa Kim Dung và Hạ Mộng giống như một giai thoại, vừa đẹp mà cũng thật buồn. Hai người gặp nhau khi cả hai đã có gia đình nên không thể đến với nhau. Kim Dung say mê Hạ Mộng từ cái nhìn đầu tiên, thậm chí còn lấy bút danh Lâm Hoan để vào công ty điện ảnh Trường Thành, viết riêng cho bà rất nhiều kịch bản
Khi quyết định ly hôn vào năm 1976, Chu Mai đưa ra hai yêu cầu: một là bồi thường vật chất, hai là yêu cầu người vợ mới thắt ống dẫn trứng để không thể sinh thêm con. Kim Dung sẵn lòng đồng ý để được bên người vợ thứ ba, kém ông gần 30 tuổi.
Sau này, Chu Mai gặp cơn bạo bệnh và ra đi trong cô độc ở tuổi 63. Trong một bài phỏng vấn cách đây 4 năm, Kim Dung nói việc chia tay Chu Mai là nỗi ân hận lớn trong cuộc đời. Ông luôn tự trách bản thân và muốn xin lỗi bà cho đến khi chết.
Người vợ thứ 3 của ông là Lâm Nhạc Di, kém ông 29 tuổi. Hai người quen nhau trong một lần ông vào quán rượu để giải sầu, còn Nhạc Di là người phục vụ trong quán. Có thể thấy, Kim Dung đã tuân thủ lời hứa với Chu Mai khi ông và người vợ thứ 3 không có con chung.
Ba lần kết hôn, Kim Dung có 4 người con (2 nam, 2 nữ), tất đều là con chung với người vợ thứ hai Chu Mai. Trong số 4 người con, trưởng nam Tra Truyền Hiệp là người thừa hưởng được tài năng văn chương của ông và được mệnh danh là “thần đồng văn học. Tra Truyền Hiệp thuộc Tam Tự Kinh vào năm 4 tuổi, đọc văn thơ lưu loát vào năm 6 tuổi, 11 tuổi có tác phẩm đầu tay “Cuộc đời ta là vì cái gì”. Kim Dung rất tự hào về người con trai này.
Tuy nhiên, hạnh phúc chưa lâu, vào tháng 10/1976, Tra Truyền Hiệp đột ngột thắt cổ tự sát tại Mỹ khi mới 19 tuổi, đang học năm nhất Đại học Columbia. Sự mất mát này ảnh hưởng mạnh mẽ đến tinh thần Kim Dung. Chia sẻ trên Chinanews vào năm 2004, ông cho biết mình đã khóc như một đứa trẻ khi nhận được tin dữ. Sau khi con trai trưởng mất, Kim Dung tìm đến Phật giáo để có được sự thanh thản trong tâm hồn. Năm 1991, Kim Dung bán tờ Minh Báo cho Vu Phẩm Hải vì nhận thấy người này có nhiều nét giống với con trai đã khuất./.
"Đại hiệp" Kim Dung qua đời để lại tiếc thương cho nhiều người
Những cao thủ võ lâm được yêu mến nhất trong truyện của Kim Dung