Ra mắt mẫu xe số giá rẻ Blade, Honda Việt Nam công bố hãng sẽ ngừng sản xuất hai mẫu xe là Wave 110S và Wave 110RS. Blade được hiểu là tên của dòng xe Honda Wave thế hệ mới với thay đổi ở vài chi tiết. Mặc dù tại thời điểm hiện tại, Blade vẫn được bán ra song song với một số dòng xe Wave.
Honda Việt Nam chọn cách chuyển mình từ từ chứ không đột ngột dừng sản xuất Wave để dùng Blade thay thế. Bởi lẽ, cái tên Wave được khai sinh từ năm 1995, xuất hiện chính hãng tại Việt Nam vào năm 2002. Những con số về thời gian khiến Wave ăn sâu vào tiềm thức người Việt.
Vậy, Blade mới có gì để khiến Honda chuyển hẳn Wave sang một cái tên mới, như cách mà hãng đã khai tử dòng xe Honda Dream vốn vang bóng một thời nhưng lại không có ‘kẻ nối dõi’?
Đó chỉ là cái tên. Từ Wave sang Blade. Một cách làm nóng lại phân khúc xe này, tăng sức trẻ để cạnh tranh với đối thủ, tiêu biểu là Yamaha Sirius.
Honda Việt Nam chọn giải pháp an toàn là gần như giữ nguyên mọi thứ từ Wave, chỉ thay đổi bộ tem sặc sỡ hơn và đôi chút vỏ nhựa trong một cái tên hoàn toàn mới – Blade. Nhà thiết kế sẽ thật khó lòng để ‘lột xác’ hoàn toàn mẫu xe này do định vị phân khúc giá rẻ. Nếu làm tốt quá, Blade sẽ chạm đến dòng xe ở phân cấp cao hơn. Nếu các kỹ sư táo bạo thay đổi, kịch bản chết yểu của dòng xe Wave RSX AT (số tự động) sẽ lặp lại.
Blade có lẽ là giải pháp tốt nhất cho dòng xe Wave vốn đã gần 20 năm tuổi. Tiết kiệm chi phí sản xuất, bởi hãng chỉ cần thay đổi lại chút về dây chuyền sản xuất. Trong khi điểm lợi lớn là Honda có một mẫu xe hoàn toàn mới, bắt đầu từ năm 2014. Các chi tiết thay thế, phụ tùng, phụ kiện…đang sẵn có trên cả nước sẽ không bị thay đổi hay xáo trộn nhiều khiến người tiêu dùng vẫn có thể thay thế, sửa chữa xe ở bất kỳ nơi đâu. Đây chính là tính tối ưu hóa của sản phẩm, thứ ‘vũ khí’ khiến các đối thủ cạnh tranh hụt hơi trong cuộc chạy đua với Honda tại Việt Nam.
Nhưng, quan trọng hơn cả là Honda có thể bán chiếc “wave mới” này với giá cao hơn so với giá khởi điểm trước kia của Wave, tạo tiền đề tốt khi làm giá các biến thể của Blade sau này. Honda Việt Nam công bố 3 phiên bản Blade với mức giá lần lượt là 18,1 triệu đồng; 19,1 và 20,6 triệu đồng.
Vận hành Blade mới không khác gì so với Wave thế hệ trước, điều kiện sử dụng trong phố. Mỗi lần vào số, hộp số phát tiếng kêu to, tạo cảm giác hơi ‘xót’ xe. Tiếng ống xả được thay đổi đôi chút, không nổ đều đặn bởi hệ cấp nhiên liệu cho buồng đốt vẫn là dạng chế hòa khí. Bởi vậy, xe tạo cảm giác bốc hơn ở tầm ga đầu nhưng cũng mau chóng trở lên gằn máy hơn do sớm đạt được ngưỡng tua máy cực đại. Thân xe nhỏ trong khi gầm xe khá cao khiến vận hành Blade linh hoạt trong phố đông. Vỉa hè trong nội đô Hà Nội không phải là rào cản đối với Blade. Tính thực dụng của Blade được thể hiện rõ ràng nhất trong điều kiện vận hành này.
Ngày mưa sẽ thực sự tệ hại nếu sử dụng Blade. Yếm xe nhỏ, không đủ che chắn chút nào cho phần chân đang bận rộn với hộp số chân trái, phanh sau chân phải. Bánh xe cỡ vành lớn, đuôi xe vểnh cao khiến nước bùn bẩn văng khắp nơi, trên lưng người lái, vào mặt người đi đằng sau… Hãng đã gặp vấn đề này từ khi khai sinh ra dòng xe giá rẻ, nhưng ở Blade, vấn đề lại tiếp tục tái diễn.
Điểm yếu của Blade bộc lộ rõ ràng nhất trên điều kiện đường đèo dốc. Cung đường cua từ chân núi lên tượng đài Thánh Gióng, Sóc Sơn đánh bại hoàn toàn nỗ lực của Blade dẫu cho người lái đã quen với việc vận hành những chiếc xe nhỏ tại cung đường đèo khắp Tây Bắc. Blade sử dụng động cơ với những thông số tương đương mẫu xe Wave RSX với khoảng 110 phân khối, công suất 9,1 mã lực ở tua máy 7.500 vòng/ phút. Mô-men xoắn cực đại đạt 8,65Nm tại 5.500 vòng/ phút.
Những thông số kể trên dường như không đủ sức tải hai người lớn (khoảng 150kg), trên cung đường đèo dốc. Blade liên tục hụt hơi ở lưng chừng cua với độ dốc đường khoảng 10% ở cấp số 2. Vặn hết tay ga. Mùi côn cháy khét lẹt. Tiếng động cơ rú lên hết mức có thể. Vận tốc xe ước khoảng 10km/h. Về cấp số 1 khiến Blade thoát khỏi trạng thái trên trong giây lát. Rồi mọi thứ lại bắt đầu trở lại khi gặp quãng đường dốc tiếp theo…
Blade phiên bản cao cấp nhất được trang bị đĩa phanh ở bánh trước và phanh dạng tang trống ở bánh sau. Khi đổ đèo, kết hợp với độ gằn máy ở cấp số 2 hoặc 3, bộ phanh hoạt động hiệu quả do đây là chiếc xe mới. Hệ thống giảm xóc trước và cổ phốt còn trơn tru, cho độ nhún tốt. Khoảng cách trục bánh trước đến trục bánh sau khá dài, ở mức 1,217mm khiến việc vào cua Blade chòng chành do sự chênh lệch độ bám của bánh trước và sau. Trục cơ sở của xe càng dài, khi vào cua, bánh trước thường có xu hướng hết lốp nhanh hơn, trong khi bánh sau còn khá nhiều.
Nếu một ngày đẹp trời, người dùng ngẫu hứng ‘xách xe lên và đi’, hãy cẩn trọng trước khi chọn Blade hoặc những mẫu xe giá rẻ cùng phân khúc. Lốp xe dạng có săm sẵn sàng ‘nổ đoàng’ bất cứ lúc nào nếu gặp vật nhọn trên đường, chứ không xì từ từ như dạng lốp không săm (tubeless). Kỹ năng điều khiển Blade cũng khiến người dùng phải chú trọng hơn nữa khi di chuyển trên những cung đường nhiều đèo dốc.
Nhưng bù lại, đa số những mẫu xe của Honda đều có tính tối ưu hóa sản phẩm tốt, người dùng có thể dễ dàng sửa chữa, thay thế linh kiện ở hầu hết những nơi mà chiếc xe có thể đi đến. Blade cũng sẽ không là ngoại lệ.
Hiện tại, Honda Việt Nam phân phối Blade chính hãng thông qua các đại lý ủy quyền của hãng trên toàn quốc. Phiên bản tiêu chuẩn trang bị vành nan hoa, phanh dạng cơ cùng ba màu đỏ, đen và trắng. Phiên bản thời trang với hai lựa chọn phanh cơ hoặc phanh đĩa. Màu sắc trắng-đen và đen-xám. Bản thể thao có 2 lựa chọn với bốn màu sắc gồm cam-đen, đỏ-đen, xám-đen và đen-trắng.