Cha mẹ là người Việt Nam, nhưng Caroline Hatton được sinh ra và lớn lên tại Normandy, Pháp. Cả cha lẫn mẹ đều là dược sĩ, và dòng máu yêu khoa học đã ngấm vào bà ngay từ nhỏ.

Caroline Hatton dành 10 năm học tập, trở thành Tiến sĩ Hóa học của trường UCLA (Hoa Kỳ) vào năm 1984. Sau đó, bà được nhận vào làm việc tại phòng thí nghiệm của trường UCLA, bắt đầu bước vào lĩnh vực nghiên cứu chống doping, cùng thời điểm Thế vận hội Olympic đang diễn ra tại Los Angeles. Tính tới nay, Caroline Hatton dành khoảng 29 năm làm việc trong lĩnh vực chống doping.

ts-caroline-chan-dung.jpg
Tiến sĩ Hóa học người Mỹ gốc Việt Caroline Hatton

Caroline Hatton cho biết: Thực ra lĩnh vực nghiên cứu xét nghiệm doping đã bắt đầu trước đó vài thập kỷ rồi. Khi ấy, việc xét nghiệm các vận động viên là nhằm để đảm bảo họ không sử dụng các loại chất cấm, bởi đó là những hoạt chất giúp cải thiện khả năng thi đấu. Điều này là vi phạm luật thi đấu thể thao vì họ đang cố tình gian lận, rất không công bằng cho những vận động viên khác. Mặc khác, những loại thuốc này rất nguy hiểm cho sức khỏe con người và đi ngược lại với tinh thần thể thao chân chính”.

Trong cuộc đời nghiên cứu khoa học của mình, Tiến sĩ Caroline Hatton đã xuất bản hai bài nghiên cứu khoa học. Đó là: "Performance-enhancing drugs in sports: how chemists catch users” (Tạm dịch: Các chất cải thiện khả năng thi đấu trong thể thao: cách các nhà hóa học tìm ra kẻ sử dụng) và “We’re winning the fight against drugs in sports” (Chúng ta sẽ chiến thắng cuộc chiến chống lại các thuốc cấm trong thể thao). Bài nghiên cứu đầu tiên là công trình bà  cộng tác với Giáo sư hóa học Werner giảng dạy tại bang New York. Bài nghiên cứu này đã được xuất bản trong Tạp chí Giáo dục Hóa học (Journal of Chemical Education). Bài thứ hai được đăng trên tập san Người dẫn đường Khoa học Thiên Chúa giáo “Christian Science Monitor”. Các bài nghiên cứu này được viết nhằm hướng tới những nhà làm giáo dục, giúp họ dùng đề tài về thể thao, doping, để các sinh viên quan tâm hơn tới hóa học phân tích.

Ngoài hai bài nghiên cứu này, Caroline Hatton còn viết cuốn sách khác về lĩnh vực khoa học liên quan đến lĩnh vực mình làm việc là "The Night Olympic Team – Fighting to Keep Drugs Out of the Games”. Cuốn sách đó được xem như "một cuộc phiêu lưu khoa học không giả tưởng”.

Caroline Hatton đọc một đoạn trong cuốn sách The Night Olympic Team tại buổi tiệc mừng cuốn sách được xuất bản, LA84 Foundation, TP Los Angeles. (Ảnh: SanjaStarcevic)

Caroline Hatton chia sẻ: "Cuốn sách này dành cho các đối tượng độc giả bắt đầu từ 10 tuổi cho tới… 110 tuổi, tức những độc giả trẻ lẫn người già đều có thể đọc. Cuốn sách này viết về những nhà khoa học làm việc cho Thế vận hội Olympic bao gồm bản thân tôi, chuyên thực hiện thí nghiệm để tìm ra những ai dùng thuốc cấm với mục đích cải thiện khả năng thi đấu. Tôi viết cuốn sách này vì tôi là người đã có mặt cùng với các nhà khoa học khác từ khắp thế giới tại kỳ Thế vận hội mùa đông Olympic 2002 ở thành phố Salt Lake…”  

Bà cho biết thêm: “Trong suốt cuộc đời mình, tôi luôn thích đọc và viết. Tôi luôn mơ ước có thể viết truyện cho thiếu nhi bởi vì đây là một cơ hội tuyệt vời để mình đưa ra một điều gì đó đặc biệt làm cuộc sống của mỗi đứa trẻ trở nên tốt đẹp hơn, đồng thời có thể khơi nguồn cảm hứng cho những tâm hồn trẻ thơ, khiến chúng có động lực làm được một điều gì đó đặc biệt cho cuộc đời này. Khoảng 40 tuổi, tôi bắt đầu tham gia vài khóa học dạy viết cho thiếu nhi vì biết rõ rằng viết cho thiếu nhi sẽ khác với viết cho người lớn rất nhiều…”.

Một trong những cuốn sách Caroline Hatton đã viết cho thiếu nhi là có tựa đề: "Vero and Philippe”, được xếp trong danh sách những cuốn sách bán chạy nhất (best-seller) theo cuộc thăm dò của tờ thời báo Los Angeles Times. Theo như phần giới thiệu của nó thì "cuốn sách này đưa ra một cái nhìn khá độc đáo về việc hòa nhập hai nền văn hóa vào nhau – một là cuộc sống của giai cấp trung thượng lưu ở nước Pháp nhiều năm trước đây và một là cuộc sống của một gia đình người Việt”.

Vì cha mẹ đều là người Việt nên như Caroline Hatton cho biết: “Những hoạt động gia đình một phần nào đó khiến tôi có thêm ý tưởng cho cuốn sách. Trong quá trình tôi lớn lên, cha mẹ tôi không phải lúc nào cũng giải thích cái này là văn hóa Việt Nam, hay cái kia là văn hóa Pháp. Nói chung không hề có những lời thuyết minh đi kèm, nhưng trong thời gian sống bên gia đình, tôi biết được những phong tục tập quán lối sống nào là của người Việt Nam. Có lẽ việc được cha mẹ người Việt nuôi dạy từ nhỏ mà tôi tự khắc nhận thức được những điều đó. Tôi vô cùng hạnh phúc và hết sức cảm ơn cuộc đời đã giúp tôi có cha mẹ người Việt!”./.