Rất nhiều nhà máy hiện không có tồn kho
Trong 6 tháng đầu năm 2012, tiêu thụ xi măng đạt khoảng 28 triệu tấn. Cộng với lượng tồn lũy kế từ năm 2011, số tồn kho của xi măng tính đến thời điểm hiện tại là 2,8 triệu tấn. Có ý kiến cho rằng tình trạng mất cân đối cung - cầu nghiêm trọng trên thị trường xi măng hiện nay có nguyên nhân do Quy hoạch phát triển ngành công nghiệp xi măng có sự thiếu chuẩn xác.
Thứ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Trần Nam |
Thứ trưởng Nam còn giải thích thêm: Toàn ngành xi măng hiện có 62 dây chuyền sản xuất xi măng lò quay, tổng công suất đạt 57,6 triệu tấn/năm. Nếu như nhu cầu xi măng năm 2011 chỉ từ 54-55 triệu tấn (nghĩa là cung đang lớn hơn cầu không nhiều) thì chỉ tới năm 2015, chỉ số tiêu thụ dự báo là 75-76 triệu tấn, năm 2020 là 93-95 triệu tấn, năm 2030 sẽ là 113 - 115 triệu tấn.
“Nếu chúng ta chỉ lấy thời điểm khó khăn hôm nay để đánh giá và điều chỉnh Quy hoạch thì không hợp lý. Chúng ta vẫn đang nắm vững và có sự điều chỉnh kịp thời trước diễn biến của mỗi giai đoạn đối với ngành công nghiệp xi măng”- Thứ trưởng Nam khẳng định.
Về sản lượng xi măng tiêu thụ trong nước năm 2012, Thứ trưởng Nam cho biết sẽ chỉ đạt quanh con số như năm 2011 nhưng đặt trong bức tranh tổng thể của ngành sản xuất vật liệu xây dựng nói chung sẽ thấy ngành công nghiệp xi măng vẫn có sản lượng tiêu thụ tốt hơn, tồn kho giữ ở mức thấp nhất.
Đồng thời, xi măng đang nỗ lực “tìm đường” vào các công trình dự án giao thông (đặc biệt là giao thông nông thôn) đang được ưu tiên phát triển trên phạm vi toàn quốc, hoặc các dự án sản xuất vật liệu xây không nung với những hứa hẹn lớn về tiềm năng phát triển trong tương lai không xa.
Quy hoạch và quản lý đầu tư khá chuẩn xác
Trước những băn khoăn của dư luận về hiện tượng một số nhà máy mới đầu tư nhưng không thể phát huy được năng lực máy móc thiết bị, không hoàn được vốn, thậm chí có nguy cơ vỡ nợ có liên quan gì đến chất lượng quy hoạch ngành, Thứ trưởng Nguyễn Trần Nam thẳng thắn: Có những cái tên đang gây nhức nhối trong ngành xi măng như Xi măng Hạ Long, Xi măng Đồng Bành, Xi măng Quang Sơn, Xi măng Tam Điệp... Và Bộ Xây dựng đã kiểm tra làm rõ nguyên nhân yếu kém và đi đến kết luận với từng dự án cụ thể.
Nhờ quy hoạch đầu tư, quản lý đầu tư khá chuẩn xác, ngành xi măng đã hạn chế được phần nhiều “biến chứng” nguy hiểm khi nền kinh tế diễn biến phức tạp như hiện nay. |
Ví dụ, Nhà máy xi măng Đồng Bành thua lỗ là do các cổ đông không đóng góp đủ vốn điều lệ, thiếu vốn hoạt động, lại tổ chức sản xuất không tốt; Xi măng Hạ Long thì do bị kéo dài thời gian đầu tư, bị tăng tổng mức đầu tư và do trượt giá nên dù sản xuất tốt, hàng tiêu thụ hết nhưng vẫn thiếu hụt dòng tiền… Mới đây, Bộ Xây dựng cũng thực thi những động thái quyết liệt như đình chỉ 3 dự án nghiền clinker ở phía Nam khi phát hiện không nằm trong quy hoạch được phê duyệt.
Việc kết luận rõ như vậy cho thấy dù dự án được xây dựng đúng quy hoạch, có thị trường tốt nhưng tổ chức triển khai dự án không tốt, không cân đối giữa vốn tự có và vốn vay, tổ chức sản xuất không tốt, thiếu sự đồng lòng quyết tâm vượt khó của những người vận hành dự án thì “kể cả trong điều kiện sản xuất bình thường cũng nan giải chứ chưa nói tới bối cảnh chung vô cùng khó khăn của nền kinh tế trong thời điểm này”- Thứ trưởng Nam trăn trở.
Bên cạnh đó, khẳng định đa số các nhà máy xi măng hoạt động có hiệu quả, Thứ trưởng Nam đưa ra dẫn chứng: Ví dụ như Tổng Công ty công nghiệp xi măng Việt Nam (VICEM) tiêu thụ được 9,75 triệu tấn sản phẩm, đạt 51% kế hoạch năm, lợi nhuận trước thuế 419 tỷ đồng, đạt 64,5% kế hoạch năm; Công ty xi măng Tafico có lãi ngay từ năm thứ 2 sản xuất, trả nợ tốt...
Thế nên, Thứ trưởng Nam đặc biệt nhấn mạnh rằng: “Chính nhờ quy hoạch đầu tư, quản lý đầu tư khá chuẩn xác, ngành xi măng tuy gặp khó bởi bối cảnh chung nhưng đã hạn chế được phần nhiều những “biến chứng” nguy hiểm trong lúc nền kinh tế diễn biến phức tạp như hiện nay”.
Nói rõ hơn về lý do để khẳng định quy hoạch xi măng được xây dựng khoa học, kỹ lưỡng, Thứ trưởng Nguyễn Trần Nam phân tích: Từ cuối những năm 1980, chúng ta liên tục thiếu xi măng, hằng năm phải nhập khẩu từ 3 – 4,5 triệu tấn. Chỉ đến tận cuối những năm 2010 trở lại đây, nguồn cung xi măng mới chính thức đáp ứng được thực cầu thị trường trong nước, thậm chí bắt đầu thực hiện xuất khẩu. Như vậy rõ ràng Quy hoạch xi măng giai đoạn 2005-2010 đã chuẩn xác.
Ngành xi măng đang dần dần đi đúng vào “quỹ đạo”
Với việc đầu tư công nghệ sản xuất xi măng được theo hướng hiện đại hơn, sản lượng mỗi ngày một cao hơn, toàn ngành xây dựng của cả nước đã chấm dứt hoàn toàn thời kỳ thiếu xi măng kéo dài.
Đồng thời, suốt 15 năm qua, xi măng cũng là một trong những mặt hàng phát huy tốt nhất vai trò bình ổn giá theo chỉ đạo của Chính phủ (trong 15 năm qua, giá xi măng chỉ tăng khoảng 20%, trung bình mỗi năm chỉ tăng hơn 1%), bất chấp nhiều lúc toàn ngành đối mặt với bối cảnh hầu như tất cả các nguyên nhiên vật liệu đầu vào như than, điện đều tăng giá, bất chấp tỷ giá biến động mạnh, lãi suất ngân hàng bị đẩy lên quá cao...
Năm 2010, các doanh nghiệp xi măng bắt đầu hiện thực hóa mục tiêu xóa bớt khoảng cách chênh lệch giữa xuất khẩu và nhập khẩu và từ năm 2011 chúng ta đã xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu.
Trên cơ sở đó, Thứ trưởng Nam cho rằng, vượt qua những khó khăn với các dư chấn về các đợt “nóng – lạnh” bất thường từng xảy ra trong quá khứ, ngành xi măng đang dần dần đi đúng vào “quỹ đạo” trong quy hoạch phát triển ngành, ở từng giai đoạn cụ thể. Song, “cũng rất thận trọng xem xét rà soát quy hoạch hằng năm để có những điều chỉnh cần thiết phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của đất nước”- Thứ trưởng Nam cho biết.
Trước tình hình thực tế khó khăn chung của ngành vật liệu xây dựng như hiện nay, Bộ Xây dựng một mặt khuyến khích các doanh nghiệp xi măng nỗ lực thực thi các kế sách vượt khó như: tăng cường quản lý đầu tư và không ngừng hợp lý hóa sản xuất, nâng cao tỷ trọng nội địa hóa cơ khí xi măng, huy động đủ vốn điều lệ nhằm giảm áp lực trả lãi vay, sử dụng nhiệt khí thải nhằm giảm chi phí tài chính, hạ giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh cả về chất lượng và giá bán, đẩy mạnh tiêu thụ nội địa, đẩy mạnh xuất khẩu...
Mặt khác, Bộ cũng khuyến cáo các doanh nghiệp phải cân nhắc hết sức thận trọng về các quy định đầu tư mới, đảm bảo đủ vốn và kiểm soát dòng tiền của mình, không để vì yếu kém đơn lẻ của một vài doanh nghiệp khiến xã hội nhìn nhận sai về hiệu quả chung của ngành, hoặc đổ lỗi do quy hoạch ngành sai sót./.