Thời gian qua, các nhà máy lọc dầu lớn lần lượt được xây dựng ở Việt Nam. Ông Nguyễn Xuân Sơn, Chủ tịch HĐTV Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) đã từng cho rằng, đây là một tín hiệu đầu tư tốt của thị trường Việt Nam và nếu làm tốt, Việt Nam có thể trở thành điểm sáng trên bản đồ lọc hóa dầu của thế giới.

Theo GS. Nguyễn Mại, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, hiện Việt Nam đã có 3 nhà máy lọc hóa dầu: Dung Quất (Quảng Ngãi) với vốn đầu tư trên 3 tỷ USD, công suất 6,5 triệu tấn dầu thô/năm; Nghi Sơn (Thanh Hóa) vốn đầu tư 9 tỷ USD, công suất 10 triệu tấn dầu thô/năm; Long Sơn (Bà Rịa-Vũng Tàu) vốn đầu tư 4,5 tỷ USD, công suất 10 triệu tấn dầu thô/năm. 

Mới đây, Việt Nam tiếp tục bổ sung thêm 2 dự án: Nhà máy lọc hóa dầu Vũng Rô (Phú Yên) vốn đầu tư 3,18 tỷ USD, công suất 8 triệu tấn dầu thô/năm; Nam Vân Phong (Khánh Hòa) vốn đầu tư 2 tỷ USD, công suất 10 triệu tấn dầu thô/năm. Riêng Bình Định cũng xin bổ sung thêm Dự án lọc hóa dầu Nhơn Hội, với vốn đầu tư lên tới 22 tỷ USD (trước là 27 tỷ USD), công suất 20 triệu tấn dầu thô/năm.

Như vậy, tính chung ngành công nghiệp lọc hóa dầu của Việt Nam có công suất khoảng 45-50 triệu tấn/năm. Nếu tính thêm dự án Nhơn Hội, công suất dự kiến lên tới gần trên 65 triệu tấn/năm.

GS. Nguyễn Mại không đồng tình với việc phát triển các dự án lọc hóa dầu. (Ảnh: KT)
Tuy nhiên, GS. Nguyễn Mại phản đối việc Việt Nam đi lên công nghiệp hóa đến năm 2020 theo hướng này. Theo ông, cái rất quan trọng của chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa là tái cơ cấu nền kinh tế, Việt Nam có quyền lựa chọn phát triển ngành nghề nào thích ứng với tương lai phát triển của thế giới.

“Chúng ta phải coi đây là câu chuyện tương lai của chúng ta. Trong cuốn Làn sóng thứ 3 có nêu 4 ngành công nghiệp trụ cột của tương gồm công nghiệp vi sinh, công nghiệp vũ trụ, công nghiệp đại dương.... Còn công nghiệp sắt thép, hóa dầu là các ngành công nghiệp cổ điển. Các nước đi trước chúng ta đã phải chịu rất nhiều hậu quả do phát triển công nghiệp cổ điển: Ô nhiễm môi trường, khí thải nhà kính…rồi đủ các thứ khác. Chúng ta đi sau phải lựa chọn, tôi không phản đối phát triển công nghiệp khai khoáng, lọc hóa dầu nhưng chỉ nên phát triển ở mức độ vừa phải”, GS. Nguyễn Mại chỉ rõ.

GS. Nguyễn Mại cũng cho rằng, Chính phủ nên thận trọng để cân nhắc trong phát triển công nghiệp hóa dầu để dành đất đai đó, tiềm năng con người đó để phát triển các ngành công nghiệp tương lai như công nghiệp điện tử, công nghiệp vi sinh, công nghiệp đại dương mà trước nay chúng ta rất muốn thành cường quốc về kinh tế biển.

Đánh giá về các lợi ích của Việt Nam đối với những dự án lọc dầu, GS. Nguyễn Mại đảm bảo là Việt Nam không được bao nhiêu. Bởi hiện nay, công suất của các nhà máy hóa dầu đã là 45-50 triệu tấn tuy nhiên lượng khai thác dầu tối đa chỉ đạt 15 triệu tấn/năm. Như vậy để vận hành tất cả, Việt Nam phải nhập tới 35 triệu tấn dầu vào để sản xuất ra dầu tinh phục vụ cho xuất khẩu.

“Tôi xin lưu ý rằng, dầu thô của chúng ta rất nhiều tạp chất nên chỉ có thể được 65%, còn 35% phải nhập dầu từ Trung Đông để phối trộn mới sử dụng được. Mọi thứ rất khó khăn chứ không phải có quy mô lớn là tốt”, GS. Nguyễn Mại khẳng định.

GS. Nguyễn Mại lấy ví dụ so sánh, dự án lọc dầu Nhơn Hội khi vào Việt Nam chiếm dụng hàng nghìn ha đất nhưng chỉ giải quyết hơn 4.000 lao động và đóng góp hơn 100-150 tỷ USD/năm. Trong khi một dự án của Samsung với vốn đầu tư 2 tỷ USD chỉ chiếm 2 ha đất nhưng giải quyết tới 43.500 lao động cho Việt Nam và đóng góp hàng năm 45.000 tỷ đồng (220 tỷ USD) cho ngân sách nhà nước. Do vậy, so sánh về tất cả các chỉ số công nghiệp lọc hóa dầu không thể so sánh với công nghệ cao được.

GS. Nguyễn Mại cũng cảnh báo mức ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp lọc hóa dầu bởi đây là ngành công nghiệp cổ điển của thế giới, phát triển dựa trên khai thác tài nguyên gây ô nhiễm môi trường. Vị Giáo sư này cũng băn khoăn không hiểu vì sao một đất nước đang rất cần vốn phát triển kinh tế như Thái Lan lại đầu tư mấy chục tỷ USD xây dựng dự án Nhơn Hội ở Việt Nam./.