Sáng 19/7, Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội tổ chức Hội thảo giải pháp công nghệ cho dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam.

Thứ trưởng Bộ GTVT Lê Anh Tuấn cho biết Bộ đưa ra 3 kịch bản để so sánh nghiên cứu và đề xuất theo hướng nâng cấp tối ưu hóa năng lực đường đơn của tuyến đường sắt hiện tại để khai thác vận tải hàng hóa và hành khách. Cùng với đó là xây dựng đường sắt mới phục vụ tàu khách với định hướng về lâu dài khai thác với tốc độ tối đa 320km/h, tổng diện tích đất khoảng 9.834ha.

Tổng mức đầu tư dự án này khoảng 58,71 tỷ USD, suất đầu tư 38 triệu USD/km. Trong đó giai đoạn 1 (2020-2032) đầu tư đoạn Hà Nội - Vinh dài 295km tổng đầu tư 12,022 tỷ USD và TP.HCM - Nha Trang 370km với tổng đầu tư khoảng 12,691 tỷ USD. Giai đoạn 2 (2032-2050) đầu tư đoạn Vinh - Nha Trang dài 894km với 33,998 tỷ USD để liên thông toàn tuyến.

Theo Thứ trưởng Bộ GTVT Lê Anh Tuấn, dự kiến vốn nhà nước khoảng 80%, tư nhân 20%, bình quân đầu tư hàng năm chiếm 0,7% GDP và giai đoạn 2 chiếm 0,55% GDP. Với tình hình sử dụng và trả nợ công hiện nay của Chính phủ, dự án không làm vượt trần nợ công 65% GDP.

cao_toc_bac_nam_uaxi.jpg
Hội thảo giải pháp công nghệ cho dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam.

Còn Thứ trưởng Bộ KHĐT Vũ Đại Thắng thì cho biết, qua nghiên cứu, Bộ GTVT đưa 6 kịch bản gom lại 3 phương án chính và đề xuất chọn phương án 3 theo hướng xây dựng đường sắt tốc độ cao. Trong trường hợp này, Bộ sẽ thẩm định trên phương án chọn. Tuy nhiên qua một số nghiên cứu, tham khảo một số dự án khác, thì thấy cần làm rõ kịch bản phát triển chứ không thể làm ngay phương án phát triển tốc độ cao được.

“Trên cơ sở các kịch bản của Bộ GTVT, Bộ KHĐT xem xét kịch bản thấp hơn thì khả thi về nguồn vốn và trần nợ công”, Thứ trưởng KH-ĐT cho rằng chính vì vậy Bộ KH-ĐT báo cáo Chính phủ là Hội đồng thẩm định cần xem xét lại các kịch bản phát triển để đưa ra quyết định cuối cùng. Các kịch bản này dựa trên công nghệ, tốc độ.

“Nếu chọn tốc độ cao, chạy riêng chở khách thì chi phí rất lớn. Nếu chọn mức độ thấp kết hợp chở khách và chở hàng, một số nước thành công không cần tốc độ cao trên 200km/h mà vẫn đáp ứng được yêu cầu”, ông Vũ Đại Thắng khẳng định.

Ông Vũ Đại Thắng cũng lưu ý: “Ở đây không có chuyện Bộ KH-ĐT đưa phương án cắt giảm tổng mức đầu tư so với Bộ GTVT mà hoàn toàn dựa trên các kịch bản phương án đầu tư khác nhau nên có tổng mức đầu tư khác nhau. Nói Bộ KH-ĐT ra phương án cắt giảm tổng mức đầu tư dự án đường sắt tốc độ cao so với Bộ GTVT là hoàn toàn không phải”.

Ngoài ra, cũng theo Thứ trưởng Bộ KH-ĐT, chúng ta vẫn nhập khẩu công nghệ, chỉ có sắt thép, xi măng, con người là có sẵn. Có mấy nhà máy đóng toa tàu đến bao giờ đóng được các toa tàu tốc độ cao 200-300km?

Thực tế TP.HCM và Hà Nội đang rất mong phát triển hệ thống đường sắt đô thị và đã quy hoạch 8 tuyến nhưng mỗi dự án một loại công nghệ, độc lập hoàn toàn, tàu tuyến này không chạy tuyến kia được, bảo dưỡng cũng khác nhau.

“Với sự khác nhau như thế không sử dụng hạ tầng chung được, phải duy tu, bảo dưỡng riêng. Với cách như vậy làm đường sắt tốc độ cao thì chúng ta phải xem xét công nghệ rất nghiêm túc và kỹ lưỡng”, Thứ trưởng KH-ĐT nhấn mạnh.

Lãnh đạo Bộ KH-ĐT cũng cho biết đang xây dựng kế hoạch thẩm định báo cáo nghiên cứu tiền khả thi dự án, chuẩn bị để xin ý kiến các thành viên Hội đồng thẩm định Nhà nước dự án, thành lập tổ chuyên gia thẩm định liên ngành. Theo quy định tại Luật Đầu tư công năm 2014, thời gian thẩm định của Hội đồng thẩm định Nhà nước là 90 ngày.

Đây là dự án phức tạp, có nhiều ý kiến khác nhau và hội đồng phải thuê tư vấn nước ngoài thẩm tra nên thời gian thẩm định sẽ phải kéo dài hơn, nên dự kiến Chính phủ sẽ trình Quốc hội xem xét, quyết định chủ trương đầu tư vào kỳ họp tháng 5/2020./.