Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2011 - 2020, có xét đến năm 2030 hiệu chỉnh (Quy hoạch điện VII hiệu chỉnh) đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 18/3/2016. Quy hoạch điện VII sau khi được hiệu chỉnh đã giảm tỷ trọng nhiệt điện than và tăng tỷ lệ năng lượng tái tạo trong tổng cơ cấu phát triển nguồn điện, một điểm mới so với phương án cơ sở của Quy hoạch điện VII, vào năm 2030 nhiệt điện than sẽ chiếm 56% trong công suất dự báo và 62% trong tổng điện lượng dự báo.
Nhiệt điện than không được cộng đồng trong nước và quốc tế ủng hộ tiếp tục phát triển. (Ảnh minh họa: KT) |
Cụ thể là số lượng các nhà máy nhiệt điện than giảm 18 nhà máy và tổng công suất nguồn nhiệt điện than từ trên 75 GW giảm xuống còn xấp xỉ 55 GW, tương đương giảm khoảng 20 GW ở năm 2030, theo đó tỷ trọng công suất nhiệt điện than chiếm 42,7% tổng công suất đặt (so với tỷ trọng 52% trong Quy hoạch điện VII, giảm 10%).
Trong khi đó, công suất của nguồn điện từ năng lượng tái tạo tăng từ khoảng 13 GW trong Quy hoạch điện VII lên tới 27,2 GW ở năm 2030, đạt khoảng 62% so với mục tiêu của Chiến lược năng lượng tái tạo (nếu kể cả thủy điện lớn và vừa, tỷ trọng công suất nguồn năng lượng tái tạo chiếm 37.9% tổng công suất đặt).
Than nhập khẩu tăng gấp đôi lượng than cung ứng
Theo bình luận của Liên minh Năng lượng Bền vững Việt Nam (VSEA), định hướng điều chỉnh của Chính phủ trong giai đoạn tới tập trung vào giảm công suất và số lượng các nhà máy nhiệt điện than; giảm bớt nhu cầu nhiên liệu hóa thạch và sử dụng các công nghệ tiên tiến trong nhà máy nhiệt điện; tăng mạnh tỷ trọng năng lượng tái tạo trong cơ cấu nguồn điện… là rất phù hợp với nguyện vọng của người dân cũng như xu thế chung của thế giới hướng đến phát triển năng lượng sạch và bền vững.
Tuy nhiên, nhìn vào cơ cấu nguồn điện trong Quy hoạch điện VII hiệu chỉnh, nhiệt điện than vẫn dự kiến chiếm tới hơn 50% tổng sản lượng điện sản xuất trong 10 – 15 năm tới. Khối lượng than nhập khẩu để phát điện dự kiến vào năm 2030 lên tới hơn 85 triệu tấn, cao gần gấp đôi so với lượng than cung ứng nội địa.
Kịch bản này đặt ra câu hỏi lớn với an ninh năng lượng của Việt Nam. Liệu an ninh năng lượng quốc gia có được đảm bảo khi theo phương án hơn một nửa hệ thống điện phụ thuộc vào nhiệt điện than trong đó 2/3 nguồn nhiên liệu phụ thuộc vào bên ngoài?
Trên thực tế, nhiệt điện than không được cộng đồng trong nước và quốc tế ủng hộ tiếp tục phát triển vì là một trong những nguồn phát thải khí nhà kính lớn nhất. Bên cạnh đó, những quan ngại về ô nhiễm không khí và ảnh hưởng tới sức khỏe do sản xuất điện than cũng là bài học lớn từ trường hợp nhiệt điện Vĩnh Tân 2, cũng như từ kinh nghiệm của Trung Quốc và các quốc gia đã và đang phụ thuộc vào nhiệt điện than.
Mặt khác, nguồn điện này hiện cũng đang có giá thành được cho là rẻ ở Việt Nam vì những tác động và ảnh hưởng vô cùng to lớn tới môi trường sinh thái và xã hội chưa được đánh giá đầy đủ và tính toán vào giá thành.
Trong khi đó, tỷ trọng của năng lượng tái tạo đã được tăng lên trong những năm qua bao gồm cả thủy điện lớn và vừa. Cùng với đó, năng lượng gió và mặt trời là hai nguồn năng lượng tái tạo được mong đợi phát triển nhất thì vẫn chiếm tỷ trọng rất khiêm tốn.
Theo một nghiên cứu của Trung tâm Phát triển Sáng tạo Xanh (GreenID), vấn đề sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả cũng chưa được đề cập rõ ràng cụ thể trong Quy hoạch điện VII hiệu chỉnh. Dự báo nhu cầu điện của Việt Nam đến năm 2030 có tính tới kịch bản tiết kiệm năng lượng, nhu cầu điện có thể giảm tới 33,8% so với Quy hoạch điện VII, lớn hơn nhiều con số 18% mà Quy hoạch điện VII hiệu chỉnh.
Từ những quan sát trên, VSEA cho rằng để hiện thực hóa các định hướng mà Quy hoạch điện VII hiệu chỉnh đã đề ra và khắc phục những khoảng trống hiện thời, trước tiên cần cải cách chính sách tính giá điện. Giá điện cần phải minh bạch và bao gồm đầy đủ các chi phí ngoại biên về môi trường, xã hội và thuế carbon.
Cùng lúc đó, cần khẩn trương ban hành các quy chuẩn, tiêu chuẩn về việc sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả và các công nghệ tiên tiến theo tiêu chuẩn quốc tế đối với nhà máy nhiệt điện than mới. Cần thường xuyên nghiên cứu hiệu quả đầu tư của các nhà máy điện theo các kịch bản phát triển khác nhau để tạo sự đột phá cho phát triển năng lượng tái tạo trong Quy hoạch điện VIII giai đoạn sắp tới./.