Trong giai đoạn 1956-1975, đất nước Việt Nam bị chia cắt thành hai miền. Việc phân chia lãnh thổ ở vĩ tuyến 17 đã đặt hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vào lãnh thổ Nam Việt Nam. Như vậy, lúc đầu là chính quyền Quốc gia Việt Nam và về sau là chính quyền Việt Nam Cộng hòa và chỉ chính quyền này mới có quyền bảo vệ và quản lý các quần đảo Hoàng sa và Trường Sa với tư cách là chủ thể trong quan hệ quốc tế theo Hiệp định Genève 1954.
Tuy nhiên, người Trung Quốc lại sử dụng thái độ của Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa để làm luận cứ. Vì vậy, một vấn đề đặt ra là: giữa Bắc Việt Nam và Nam Việt Nam thì ai là người chủ thực sự theo luật pháp quốc tế của các quần đảo này?
Trung Quốc cho rằng, quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của mình và Việt Nam đã hơn một lần công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo này. Yêu sách đó dựa trên công thư của Thủ tướng Việt Nam Dân chủ cộng hòa Phạm Văn Đồng gửi Thủ tướng Chu Ân Lai vào ngày 14 tháng 9 năm 1958 đã thừa nhận tuyên bố của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ấn định chiều rộng lãnh hải Trung Quốc 12 hải lý. Tuyên bố của Trung Quốc nói sự mở rộng lãnh hải này áp dụng cho “các quần đảo Đài Loan, Đông Sa, Trung Sa, Tây Sa và Nam Sa và tất cả các đảo thuộc Trung Quốc”.
Về vấn đề này, Giáo sư Monique Chemillier – Gendreau, nguyên Chủ tịch Hội luật gia Dân chủ Thế giới phân tích, công thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng chỉ là “ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc nhưng không có sự khẳng định công nhận yêu sách của Trung Quốc với hai quần đảo.”
Cùng chung quan điểm này, ông Ngô Vĩnh Long, Giáo sư Khoa Lịch sử, Đại học Maine, Mỹ nói: “Ông Phạm Văn Đồng không bao giờ tuyên bố bỏ Hoàng Sa, không bao giờ nói chịu nhượng bộ bất cứ 1 đảo nào của Việt Nam, bất cứ đâu. Ông Phạm Văn Đồng chỉ đồng ý theo yêu cầu của ông Chu Ân Lai rằng, lãnh hải có 12 dặm bởi vì quốc tế lúc đó nói lãnh hải chỉ có 3 dặm thôi. Ông Đồng đồng ý vấn đề đó, không có nghĩa là hiến cả Hoàng Sa cho Trung Quốc.”
GS Ngô Vĩnh Long, Đại học Maine (Ảnh: Lê Phúc)
Tuy nhiên, liệu sự im lặng về tình trạng của Hoàng Sa và Trường Sa trong công thư này có được coi như là sự ngầm công nhận đối với chủ quyền của Trung Quốc trên hai quần đảo này?
Ở đây, đối tượng của một sự cam kết đơn phương cần phải thật chính xác. Việc giải thích ý chí của một quốc gia phải thận trọng.
Công thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng có mục đích đáp ứng yêu cầu của Trung Quốc đối với các nước xã hội chủ nghĩa nhằm ủng hộ cuộc đấu tranh của họ chống lại chính sách tự do trên biển của Mỹ theo đuổi trong eo biển Đài Loan, đe dọa tới nền an ninh quốc gia của Trung Quốc vào thời kỳ đó. Công thư cho thấy một sự cam kết mang tính chính trị nhiều hơn pháp lý, một hình thức thường được các nước xã hội chủ nghĩa sử dụng để thể hiện sự đoàn kết về mặt tư tưởng.
Mặt khác, phù hợp với nguyên tắc theo đó “các hạn chế sự độc lập không thể suy diễn”, sự từ bỏ phải được nói rõ và không được suy diễn. Công thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng không chứa đựng bất kỳ sự từ bỏ rõ ràng nào chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Hơn nữa, căn cứ vào chức năng quyền hạn của mình, một Thủ tướng không có thẩm quyền từ bỏ hoặc chuyển nhượng lãnh thổ. Thẩm quyền đó thuộc về Quốc hội Việt Nam.
Tác giả E. Suy trong tác phẩm Các hành vi pháp lý đơn phương trong công pháp quốc tếcho rằng, “Khó có thể tìm được trong thực tiễn quốc tế các ví dụ từ bỏ hoàn toàn đơn phương. Trên thực tế, một chủ thể luật không thể dễ dàng hi sinh một quyền mà không nhận được các ưu đãi đổi lại. Do vậy, một sự từ bỏ trong phần lớn các trường hợp được cân bằng bởi sự quy thuộc các quyền khác, điều đó một lần nữa lại đưa chúng ta tới hình bóng của luật điều ước. Ngay cả khi, mới chỉ thoạt nhìn ta tin rằng có sự hiện diện của một sự từ bỏ hoàn toàn đơn phương thì cũng nên nghi ngờ bởi vì nó có thể là câu trả lời cho một sự mời mọc hoặc một đề nghị nào đó…”
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Việt Nam và Trung Quốc đã đồng ý rằng, các tranh chấp của hai nước sẽ được giải quyết trong một thời điểm thích hợp thông qua đàm phán. Công thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng không nằm trong bối cảnh tranh chấp giữa Hà Nội và Bắc Kinh. Vì thế, “không gì có thể ngăn cản các bên đạt thỏa thuận bằng con đường thông thường, đó là một thỏa thuận với điều kiện có đi có lại.” Công thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng không chứa đựng đặc điểm có đi có lại. Do đó, không thể xem công thư này như là sự từ bỏ chủ quyền đối với quần đào Hoàng Sa và Trường Sa.
Mặt khác, về vấn đề lãnh thổ, nguyên tắc chính của luật quốc tế là nguyên tắc thực sự. Bên liên quan “không thể chuyển dịch nhiều hơn các quyền mà họ có”. Vì vậy, cần phải xem xét liệu Việt Nam Dân chủ Cộng hòacó quản lý thực sự các đảo này trong thời điểm đó để có đủ thẩm quyền chuyển nhượng cho Trung Quốc hay không?
Chúng ta đã biết, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm ở phía Nam vĩ tuyến 17, theo các điều khoản của Hiệp định Genève năm 1954 về chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình tại Đông Dương. Theo đó, các quần đảo này tạm thời thuộc quyền quản lý của chính quyền Việt Nam Cộng hòa trong khi chờ đợi một cuộc Tổng tuyển cử nhằm thống nhất đất nước. Câu hỏi đặt ra là Việt Nam Cộng hòa có phải là một quốc gia trên thực tế không? Câu trả lời là có. Việt Nam Cộng hòa là chủ thể kế nhiệm hợp pháp các danh nghĩa, các quyền và các yêu sách do Pháp để lại trên các đảo. Vì vậy, các tuyên bố hay biểu thị lập trường có thể có của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lúc đó không có giá trị đối với danh nghĩa chủ quyền.
Theo ông Trần Duy Hải, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Biên giới Quốc gia, Bộ Ngoại giao, người ta không thể từ bỏ cái mà người ta không có quyền lực: “Khi Công thư này gửi Trung Quốc, lúc bấy giờ, quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đang thuộc quyền quản lý của Việt Nam Cộng hòa, theo Hiệp định Genève năm 1954 và Trung Quốc là một bên tham gia. Theo logic thông thường, bạn không thể cho người khác những gì khi bạn chưa có được. Cho nên tôi khẳng định rằng, công thư của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng không có giá trị trong việc công nhận chủ quyền đối với cái gọi là Tây Sa hay Nam Sa theo cách gọi của Trung Quốc.”
Với tư cách là chủ thể trong quan hệ quốc tế theo Hiệp định Genève, Việt Nam Cộng hòa đã tiến hành tổ chức hành chính, điều tra và khai thác kinh tế, bảo vệ hữu hiệu các quần đảo.
Đối với Hoàng Sa, năm 1956, khi quân đội viễn chinh Pháp rút khỏi Đông Dương, quân đội Quốc gia Việt Nam, về sau là Việt Nam Cộng hòa đã ra tiếp quản nhóm phía Tây quần đảo Hoàng Sa, ra thông cáo nhấn mạnh quần đảo Hoàng Sa cùng với quần đảo Trường Sa “luôn luôn là một phần của Việt Nam”.
Năm 1959, Nha Khí tượng Sài Gòn đã điều ông Ngô Tấn Phát ở quận Hải Châu, TP. Đà Nẵng ra công tác tại Trung tâm Khí tượng Hoàng Sa trong thời gian 6 tháng. Trong ký ức của mình, ông vẫn còn nhớ rất rõ về ngọn hải đăng nằm ở phía Bắc đảo. Hướng Tây Nam có miếu Bà, trong miếu có tượng cao 1,5m. Ở khu vực giữa đảo, là tấm bia chủ quyền Việt Nam do nhà Nguyễn đặt vào năm 1816.
“Hoàng Sa là 1 trong những trạm lớn của TP. Đà Nẵng. Mỗi lần đi Hoàng Sa, có 6 người làm nhiệm vụ quan trắc viên, đo đoc thời tiết, nhiệt độ trong ngày; cứ 3 tiếng đọc 1 lần, tính toán những số liệu mà mình đọc được, lưu trong cuốn sổ chính của trạm để gửi vào đất liền, Trung tâm Khí tượng Đà Nẵng”, ông Ngô Tấn Phát cho biết.
Giấy chứng sinh của bà Mai Kim Quy tại đảo Hoàng Sa- con gái ông Mai Xuân Tập, nhân viên khí tượng đảo Hoàng Sa.
Năm 1960, Việt Nam Cộng hòa quyết định bổ nhiệm ông Nguyễn Bá Thược, cán bộ hành chính hạng 1 tại Tam Kỳ, Quảng Nam, giữ chức Phái viên hành chính Hoàng Sa. Năm 1971, tại Hội nghị ASPEC Manila, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Cộng hòa Trần Văn Lắm đã tuyên bố, quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam.
Tuy nhiên, đến tháng Giêng năm 1974, lực lượng vũ trang Trung Quốc dùng vũ lực chiếm đoạt quần đảo Hoàng Sa. Trong các ngày từ 17 đến 20 tháng 1 năm 1974, xảy ra trận hải chiến giữa lực lượng hải quân Việt Nam Cộng hòa và lực lượng hải, lục, không quân, quân giải phóng nhân dân Trung Hoa. Quân đội Việt Nam Cộng hòa đã chống trả quyết liệt nhưng không thể giữ được các đảo.
Nghị quyết 2625 của Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc, ngày 24 tháng 10 năm 1970 quy định rõ: “Lãnh thổ của một quốc gia không thể là đối tượng của một sự chiếm đóng quân sự, kết quả của việc sử dụng vũ lực trái với các điều khoản của Hiến chương Liên Hợp Quốc. Lãnh thổ của một quốc gia không thể là một đối tượng thụ đắc bởi một quốc gia khác do đe dọa sử dụng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực. Bất kỳ sự thụ đắc lãnh thổ nào bằng sự đe dọa sử dụng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực đều là bất hợp pháp.”
Giáo sư Monique Chemillier – Gendreau, nguyên Chủ tịch Hội luật gia Dân chủ Thế giới khẳng định, hành động của Trung Quốc dùng vũ lực chiếm Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam đã vi phạm các quy định của luật pháp quốc tế: “Trung Quốc không hề có giấy tờ chứng thực lịch sử, đã dùng vũ lực để chiếm đóng Hoàng Sa. Điều này không thể được xem một quyền theo luật pháp quốc tế. Tôi đã nghiên cứu nhưng chưa tìm được những giấy tờ nào về sự có mặt hoặc quản lý thực sự của Trung Quốc.”
Đáng chú ý, ngay khi đó, quan sát viên của Việt Nam Cộng hòa tại Liên Hợp quốc cũng đã chính thức yêu cầu Chủ tịch Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc xem xét hành động xâm phạm chủ quyền lãnh thổ Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa.
Tháng 3 năm 1974, tại Hội nghị Ủy ban Kinh tế Viễn Đông tổ chức tại Colombo, đại biểu chính quyền Sài Gòn đã khẳng định lại chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo.
Ngay tại Hội nghị lần thứ ba của Liên Hợp quốc về Luật Biển, ngày 2 tháng 7 năm 1974, đại biểu chính quyền Sài Gòn cũng tố cáo sự chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa bằng vũ lực của Bắc Kinh và khẳng định lại rằng, Hoàng Sa và Trường Sa là “bộ phận hữu cơ của lãnh thổ Việt Nam” và “chủ quyền của Việt Nam trên các quần đảo này là không thể tranh cãi và không thể chuyển nhượng.”
Cũng cần nhắc lại, từ năm 1969 trên lãnh thổ Việt Nam cùng tồn tại hai chính phủ. Đó là Chính phủ Việt Nam Cộng hòa và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Trước sự kiện tại Hoàng Sa, Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam cũng đã đưa ra tuyên bố ba điểm:
“Chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ là những vấn đề thiêng liêng đối với mọi dân tộc;
Giữa các nước láng giềng có nhiều vụ tranh chấp về vấn đề biên giới và lãnh thổ do lịch sử để lại. Các tranh chấp đó có khi rất phức tạp, đòi hỏi được xem xét kỹ càng;
Các nước liên quan phải cùng nhau xem xét vấn đề trên tinh thần bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, hữu nghị và láng giềng tốt và giải quyết vấn đề bằng thương lượng.”
Điều này chứng tỏ cả hai Chính phủ đòi hỏi quyền đại diện cho miền Nam Việt Nam đều chung một lập trường, là phản đối sự xâm lược bằng vũ lực trên quần đảo Hoàng Sa. Tuy nhiên, từ quan điểm liên tục của một danh nghĩa pháp lý, Việt Nam Cộng hòa là bên kế thừa duy nhất các quyền và nghĩa vụ của Việt Nam trong Liên hiệp Pháp và của nước Pháp trên hai quần đảo.
Sau khi Trung Quốc giành được quyền kiểm soát quần đảo Hoàng Sa bằng vũ lực, Việt Nam đã mất đi yếu tố vật chất của mình trên quần đảo này nhưng người Việt Nam vẫn tiếp tục duy trì yếu tố tinh thần của mình bằng các công hàm và tuyên bố không ngừng phản kháng lại sự chiếm đóng bất hợp pháp đó, bảo tồn các quyền đã có từ xưa. Bởi vì “việc sở hữu một lãnh thổ không chấm dứt chỉ do việc mất đi sự chiếm giữ vật chất, cần phải kèm theo việc mất đi đó ý định từ bỏ lãnh thổ.”
Từ ngày 2 tháng 7 năm 1976, nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là bên kế thừa hợp pháp, thay thế danh nghĩa thường xuyên của Việt Nam cộng hòa trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Các quyền và nghĩa vụ của Việt Nam cộng hòa trên các quần đảo này tiếp tục được thực hiện mà sự liên tục không có gì phải nghi ngờ.
Ông Đặng Công Ngữ, nguyên Chủ tịch UBND huyện Hoàng Sa, TP. Đà Nẵng khẳng định, Việt Nam, qua 40 năm ròng rã, vẫn có ý chí cương quyết về chủ quyền hợp pháp của mình trên quần đảo Hoàng Sa: “Đến giờ này, UBND huyện Hoàng Sa vẫn duy trì ở đây. Dù quần đảo của Tổ quốc mình hiện không còn được quản lý về mặt thực chất nhưng ý chí của chúng ta vẫn duy trì, tiếp tục. Tôi nghĩ rằng, dù có một năm, nhiều năm hay lâu hơn nữa, mình vẫn tiếp tục khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa.”
Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam khẳng định, Hoàng Sa muôn đời là của Việt Nam: “Hoàng Sa là của Việt Nam. Trung Quốc đã dùng vũ lực chiếm Hoàng Sa. Chúng ta nhất định phải đòi lại. Đời tôi, đời các bạn chưa đòi lại được thì đời con cháu chúng ta phải tiếp tục đòi theo đúng luật pháp quốc tế.”
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam: Hoàng Sa là của Việt Nam (Ảnh: Hải Sơn)
Quần đảo Hoàng Sa không thuộc chủ quyền của Trung Quốc. Nhưng để biện minh cho hành động hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm luc địa Việt Nam, Trung Quốc đã trắng trợn tuyên bố rằng họ có chủ quyền đối với Tây Sa. Trung Quốc đã một lần nữa thể hiện rõ ý đồ khẳng định chủ quyền bất hợp pháp của họ đối với quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.
Đặc biệt nghiêm trọng hơn, Trung Quốc đã cố tình giải thích và áp dụng sai các quy định của Công ước của Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982, bằng cách vạch đường cơ sở bao lấy toàn bộ quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam để mở rộng vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa; qua đó, từng bước kiểm soát đi tới độc chiếm Biển Đông, hiện thực hóa yêu sách “đường lưỡi bò” phi lý. Nội dung này sẽ được đề cập trong “Bài 4: Việt Nam nên khởi kiện Trung Quốc”. Mời quý độc giả đón đọc.
Xem toàn bộ loạt bài:
>> Bài 1: "Trung Quốc ngụy biện chủ quyền về cái gọi là "Tây Sa".
>> Bài 2: "Việt Nam - Nhà nước đầu tiên xác lập chủ quyền tại Hoàng Sa"
>> Bài 4: Việt Nam nên khởi kiện Trung Quốc